Vận dụng triết học Mác - Lênin trong hoạt động giáo dục nhân cách học sinh - pdf 17

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối


I. . MỞ ĐẦU3 3
II. . CƠSỞLÝTHUYẾT3 4
1. . Mối quan hệgiữa vật chất và ýthức3 4
2. . Phép biện chứng duy vật3 5
3. . Nguyên lývềmối liên hệphổbiến3 6
1.Khái quát vềmối liên hệphổbiến& 6
2.Các tính chất của mối liên hệ& 6
4. . Nguyên lývềsựphát triển3 7
1.Những quan niệm khác nhau vềsựphát triển& 7
2.Tính chất của sựphát triển& 9
III. . VẬN DỤNG3 11
1. . Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách học sinh3 11
2. . Đối với học sinh đặc biệt3 13
3. . Phối hợp các lực lượng giáo dục khác3 15
IV. . KẾT LUẬN3 16
V. . TÀI LIỆU THAM KHẢO3 17
I.MỞ ĐẦU
Khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa rông là bao gồm cả quá trình giáo dục
kiến thức và giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, hiện nay đa số giáo viên đều đặt nặng
việc dạy chữ mà xem nhẹ việc dạy làm người. Thậm chí, nếu có dạy đạo đức thì
cũng thiếu những kiến thức căn bản, nền tảng có thể dẫn đến những hậu quả xấu,
ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu triết học Mác - Lenin với tinh thần tiếp thu
và vận dụng vào thực tiễn, tui nhận thấy có một số quan điểm của triết học Mác -
Lênin có thể áp dụng trong các công việc của một giáo viên dạy Vật lý. Vì vậy, tiểu
luận này với tên gọi “Vận dụng triết học Mác - Lênin vào hoạt động giáo dục nhân
cách của học sinh” sẽ tập trung vào làm rõ những vận dụng của triết học Mác -
Lenin với tư cách là phương pháp luận, kim chỉ nam hành động cho công tác hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh phổ thông.
II.CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò
quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở
lại của ý thức đối với vật chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội
nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định
nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý
thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ
quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động
của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý
thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và
ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình
thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức
mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn, bằng
việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần thiết cho
hành động.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối
nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là
sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động, là quá
trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết mới ngày càng
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và phát triển sự vật .
Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò định hướng cho con người trong
việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn các phương án,
hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi
chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất
có thể theo hai khuynh hướng: Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự
phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con
người nhận thức đúng quy luật khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và
thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm
hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản
động, nếu con người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự
tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể
sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách
quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi
hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy thực thể
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc thực hiện
nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính
năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy chức năng động
sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan.
2.Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những
hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép
biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những
quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện
chứng duy vật trở thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn
hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định nghĩa:
“phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
3.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a.Khái quát về mối liên hệ phổ biến
Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay
chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì
quy định mối liên hệ đó?
Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quá trình
khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn
nhau. Quan điểm duy vật biện chứng còn khẳng định tính thống nhất vật chất của
thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu,
song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống
nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập
tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo
những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng
định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động
qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt
của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .
b.Các tính chất của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự
vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự
tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất
không khí ..., đôi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người - một sinh
vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác
động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân.
Ngoài sự tác động của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị
và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận
vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối quan hệ,vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp
nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người .
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến:
- Thứ nhất , bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện
tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
- Thứ hai , mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt tuỳ theo
điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của
mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể,
được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên
cứu những mối quan hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế,
Ph.Ănghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”.
- Thứ ba, nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới
còn nhìn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể
phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ bản
chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu
nhiên; mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một
lĩnh vực hay một số lĩnh vực của thế giới; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ
gián tiếp; mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt hay giữa các
giai đoạn phát triển của một sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của sự vật.v.v.
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự
vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.Vì vậy, trong một sự vật
có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên
hệ xác định.
4.Nguyên lý về sự phát triển
a.Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với
nhau, quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng .



XoQeE3pt4xu8vR8
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status