Chương trình đào tạo từ xa Đại học dân lập Đông Đô - pdf 17

Download miễn phí Luận văn Chương trình đào tạo từ xa Đại học dân lập Đông Đô



Theo một số phân tích và nghiên cứu có hệ thống về hoạt động giáo dục trong phòng học trong hơn một thế kỷ, người ta đã mô tả đào tạo truyền thống như là một mô hình trải dài từ chương trình lấy giáo viên làm trung tâm tới chương trình lấy sinh viên làm trung tâm. Tác giả quan sát thấy trong một chương trình lấy giáo viên làm trung tâm thì:
• Giáo viên nói nhiều hơn sinh viên.
• Đào tạo thường là trong phạm vi cả lớp học; đào tạo theo nhóm nhỏ hay từng cá nhân ít thấy hơn;
• Thường là giáo viên quyết định thời gian trên lớp như thế nào.
• Giáo viên dựa vào sách giáo khoa để xây dựng chương trình và cách cho điểm.
• Đồ gỗ trong phòng học được xắp xếp thành các dãy bàn và ghế hướng lên bảng.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

toán nơi đối tượng sẽ chuyển đến. Thay cho việc phải chuyển đổi toàn bộ các thông tin cần thiết để tạo lập một khung hình mới ta chỉ chuyển đổi các thông tin của đối tượng di chuyển.
2.5.1.3. So sánh các véc tơ gần giống nhau
Điểm khó khăn của ước lượng về hình động là việc xác định đối tượng. Điều đó rõ ràng nếu như trong các trường hợp có độ tương phản cao như khi có một đối tượng đen di chuyển qua một nền sáng. Trong trường hợp độ tương phản không rõ ràng, quá trình xử lý cần thiết để chỉ ra đối tượng là rất lớn. Và nó cũng phức tạp nếu như đối tượng tách ra hay hợp với đối tượng khác.
Một phương pháp để giải quyết ước lượng về hình động là phân chia ảnh thành các khối thay cho việc chỉ ra các đối tượng và so sánh các khối với các khối lân cận. Các kết quả về sự khác nhau được mã hoá để cho phép bộ giải mã có thể xây dựng lại được ảnh.
2.5.2. Các chuẩn nén video
2.5.2.1. Chuẩn MPEG1
Chuẩn về nén âm thanh và video MPEG1 là một chuẩn quốc tế mở do Motion Picture Expert Gróup phát triển cung cấp các phương pháp nén chất lượng cao cho âm thanh và video. Giống như Indeo - chuẩn của Intel, nó sử dụng cách lấy mẫu màu con nhưng giảm 25% về mức trong khi đó Indeo là 6,25%. Tuy nhiên, nó không sử dụng kỹ thuật mất mát lượng tử hoá vecto nhưng số lượng motion estimation và kỹ thuật biến đổi rời rạc cosin để cải thiện chất lượng, đặc biệt khi sử dụng với đối tượng di chuyển nhanh và các ảnh.
Kỹ thuật thứ hai mà MPEG1 sử dụng là biến đổi rời rạc cosin (DCT). Quá trình xử lý này được thực hiện sau khi lấy mẫu màu. Nó lấy một khối các điểm ảnh và chuyển nó từ dạng thường sang dạng tần số. Sự chuyển đổi này cho phép các thành phần tần số cao hơn được giảm đi vì sự cảm nhận kém của mắt người đối với chúng, và vì thế cài thiện được hiệu quả của thuật toán nén RLE. Theo kết quả của các phương pháp này chất lượng hình ảnh tốt hơn so với nén video bằng Indeo.
2.5.2.2. Các tham số bắt buộc trong nén video bằng MPEG1
Giống như chuẩn JPEG, chuẩn MPEG1 cho phép người sử dụng có thể thiết lập thông số để kiểm soát kích thước của ảnh, tốc độ dòng bit... Tuy nhiên để cung cấp một mức chung, bộ các tham số bắt buộc được định nghĩa và phần lớn các bộ giải mã MPEG1 đều tuân theo chúng. Cũng có nghĩa là với bộ tham số mà nằm ngoài bộ các tahm số bắt buộc, thì khả năng tương thích giữa các bộ mã hoá và giải mã khác nhau là kém.
Độ phân giải chiều ngang <=768 điểm.
Độ phân giải chiều dọc <=576 điểm.
Số các khối cho mỗi ảnh <=396.
Số các khối được xử lý trong một giây <=99000.
Số khung hình trên giây <=30.
Dải thông <=1.86Mbps.
Kích thước bộ đệm giải mã <=376832 điểm.
2.5.2.3. Quá trình nén video với MPEG1
Chuyển đổi không gian màu.
Phân chia ảnh thành các phần và các khối.
Motion estimation.
Chuyển đổi DCT.
Mã hoá bằng mã Huffman hay RLE.
2.5.3. Bộ giải mã MPEG
Các bộ giải mã cho cả hai hệ thống MPEG1 và MPEG2 xử lý dựa trên cơ sở các thông tin về video được gửi tới bộ giải mã video và các thông tin về âm thanh được đưa đến bộ giải mã âm thanh. Hai đơn vị này giải mã các dòng bit và được đồng bộ hoá bằng kỹ thuật đánh dấu thời gian để đảm bảo âm thanh xuất hiện đúng với thứ tự của hình ảnh video. Bộ giải mã video là một bộ có chức năng đảo ngược với chức năng mã hoá. Ta nên nhớ rằng quá trình mã hoá và giải mã là hai quá trình không đối xứng, khi mã hoá ta cần nhiều phép xử lý hơn giải mã. Một tính chất mà nó được tạo ra là chất lượng của video và âm thanh có thể bị ảnh hưởng bởi quá trình mã hoá. Nếu như mã hoá không được thực hiện thích hợp và nhanh thì chất lượng ảnh khi giải mã cũng không được tốt.
2.5.4. Indeo
Công nghệ nén Indeo của Intel là một tập các thuật toán độc quyền nén âm thanh và hình ảnh được ur dụng trong môi trường Windows. Nó không tương thích với các chuẩn MPEG1 và MPEG2. Indeo sử dụng kỹ thuật lấy mẫu con thành phần chroma giống như các cơ số được sử dụng trong MPEG nhưng nó bỏ đi nhiều dữ liệu trong công đoạn này. Với các thuật toán MPEG, sau khi lấy mẫu con, nội dung gốc giảm xuống 25%. Còn với Indeo nó giảm xuống 6,25%.
2.6. CD-ROM
CD-ROM là một phần của công nghệ đĩa CD - nó đã làm một cuộc cách mạng trong thế giới âm thanh. Để lưu trữ các dữ liệu âm thanh số, các file âm thanh được mã hoá và lưu trữ khoảng 600MB dữ liệu trên một đĩa CD đơn. Các ổ CD-ROM cũng sử dụng nguyên lý giống như các bộ chơi đĩa CD – một bộ sinh tia laser sinh ra ánh sáng tập trung trên các track chứa dữ liệu. Bề mặt của đĩa phản xạ lại các tia sáng và các điểm lõm (pit) trên bề mặt làm phân tán tia sáng chiếu đến - cho phép ghi và đọc lại các giá trị nhị phân trên đĩa.
Công nghệ CD âm thanh được Philip và Sony phát triển vào cuối những năm 1970 và được đăng ký trong chuẩn RedBook cho CD âm thanh năm 1982. Điểm mạnh của công nghệ ứng dụng CD là dung lượng lưu trữ cao, giá thấp đối với dữ liệu được lưu trữ chỉ đọc đã được tổng kết trong CD-ROM YellowBook năm 1983. Công nghệ cơ bản của CD-ROM cũng giống như công nghệ đối với CD âm thanh, một bit sai thì không đáng kể gì đối với việc thể hiện âm thanh, nhưng nó lại hết sức quan trọng đối với các dữ liệu máy tính. Phụ thêm vào chuẩn RedBook CIRC cho các đĩa CD âm thanh, chuẩn YellowBook xác định mật độ dữ liệu được ghi, đưa thêm vào đó nhiều bit để phát hiện và sửa lỗi (EDC - Error Detection Code, ECC - Error Correction Code).
2.6.1. Công nghệ CD-ROM
Một CD chuẩn được tạo ra từ một đĩa tròn polycarbonate trong suốt, có một loạt các điểm lõm trên bề mặt của nó. Các điểm lõm trên bề mặt mã hoá dữ liệu trên đĩa. Sau đó nó được bao phủ một lớp nhôm hay một hợp chất tương tự để tạo ra bề mặt phản xạ. Một lớp sơn được sử dụng để bảo vệ sau đó là đến nhãn CD. Dữ liệu được đọc từ đĩa bằng cách chiếu một tia sáng vào và hứng tia phản xạ lại nếu như tia sáng gặp vùng phẳng - nó phản xạ lại nguyên vẹn hay là nó bị khuếch tán nếu như nó gặp các điểm lõm có độ sâu khoảng 120nm. Theo cách này, dữ liệu số có thể được lưu trữ bằng cách sử dụng các vùng phẳng và các điểm lõm trên đĩa.
Dữ liệu được lưu trữ trên một đường xoáy ốc có độ rộng khoảng 600nm và cách nhau khoảng 1.6mm. Nó tương tự như đĩa từ nhưng có khác là điểm bắt đầu của đường xoáy ốc tại tâm của đĩa. Với phần lớn các đĩa CD, điều này khá thuận lợi bởi vì khoảng 5mm rìa ngoài đĩa là khoảng trắng còn lại và được sử dụng để làm vùng điều khiển.
Với các đĩa 120mm, đường xoáy ốc dài khoảng 5km. Rãnh ghi được chia thành các sector có độ dài bằng nhau có thể lưu trữ 2048 byte dữ liệu. Đĩa được quay với tốc độ tuyến tính không đổi vì vậy các điểm lõm và các vùng phẳng đi qua bộ cảm nhận với cùng một tốc độ, không phụ thuộc vào vị trí trên vòng xoắn. Vì vậy tốc độ quay đĩa sẽ thay đổi tuỳ theo vị trí mà dữ liệu được đọc. Như vậy nếu như đầu đọc đang ở rìa ngoài thì tốc độ đĩa sẽ thấp hơn so với khi đọc dữ liệu tại các ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status