Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988 - 2005) - pdf 17

Download miễn phí Luận văn Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988 - 2005)



NỘI DUNG . 10
Chương 1: TÌNH HÌNH SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở THÁI
NGUYÊN TRƯỚC NĂM 1988 . 10
1.1. Vài nét về tỉnh Thái Nguyên . 10
1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất ở Thái Nguyên trước năm 1988 . 18
1.3. cách khai thác ruộng đất . 46
Chương 2: SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở THÁI NGUYÊN SAU
KHOÁN 10 (1988 – 2005) . 57
2.1. Những chuyển biến về sở hữu ruộng đất . 57
2.2. cách khai thác ruộng đất . 85
2.3. Một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quyền sở hữu
ruộng đất cho nông dân . 99
KẾT LUẬN .109
Tài liệu tham khảo .114
Phụ lục



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ản lƣợng (tấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
1982 5 681 21.25 8 798
1983 5 682 20.06 8 574
1984 5 697 24.08 11 013
1986 5 346 24.27 12 979
1987 5 349 25.00 13 447
Để thúc đẩy nông nghiệp phát triển, Tỉnh uỷ Thái Nguyên rất quan tâm
đến công tác thuỷ lợi. Trong vòng 6 năm (1955- 1960), toàn tỉnh đã xây dựng
được 1 công trình thủ nông (gồm 8 đập, 2 hồ chứa nước và 1 trạm bơm), tiến
hành sửa chữa, tu bổ, làm mới hàng trăm km kênh mương nội đồng. Đồng
thời, tỉnh cũng tiến hành đắp trên 2600000 m3 đất, đá, đổ gần 1000 m3 bê
tông, tu sửa và nâng cấp được một hệ thống đê, kè, đưa tổng diện tích gieo
cấy lúa được nước lên 31.855 ha, tăng 2,5 lần so với năm 1955.[56, 340]
Từ năm 1961- 1965, công tác làm thuỷ nông của tỉnh tiếp tục được coi
trọng. Trong phạm vi toàn tỉnh đã dấy lên phong trào “thi đua làm thuỷ lợi”
và được đông đảo nhân dân tham gia. Toàn tỉnh đã có hàng trăm đội thuỷ
nông được thành lập. Thông qua phong trào “Thi đua làm thuỷ lợi”, hàng
chục công trình thuỷ nông được xây dựng và đưa vào hoạt động. Đáng chú ý
nhất là các hồ Tân Hoà, Tân Kim (huyện Phú Bình), các đập Bến Động (Phổ
Yên), Hoàng Nông, Rừng Chùa (Đại Từ), Nà Kháo (Võ Nhai), Ngàn Me
(Đồng Hỷ). Ngoài ra còn có hàng ngàn km mương, máng được làm mới, tu
sửa, đảm bảo dẫn nước vào đồng ruộng. Vì thế có hàng ngàn ha ruộng đất đã
được chủ động tưới và tiêu nước, hàng ngàn ha ruộng đất trước kia chỉ cấy
được một vụ hay bỏ hoang, nay có thể cấy được hai vụ.
Cho đến năm 1973, công trình thuỷ lợi Hồ Núi Cốc chính thức được xây
dựng. Công trình thuỷ lợi này có diện tích mặt hồ rộng 2500 ha, dung tích
chứa nước là 175 000 000 m3. Đây là một công trình thuỷ lợi có tầm cỡ của
miền Bắc và cũng là công trình lớn nhất của tỉnh Thái Nguyên. Công trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
thuỷ lợi này được hoàn thành sẽ cung cấp nước phục vụ cho sản xuất của
Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên, Khu công nghiệp Gò Đầm và nước
tưới cho 12 000 ha lúa hai vụ thuộc các huyện Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình,
giúp cho phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi, tạo điều kiện để thúc đẩy
nền nông nghiệp Thái Nguyên phát triển theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, hồ Núi Cốc còn cung cấp nước sinh hoạt phục vụ đời sống
nhân dân, tạo nên một vùng sinh thái có phong cảnh đẹp, khí hậu trong lành,
có khả năng phát triển du lịch. [57, 151-152]
Nhờ có những công trình thủy nông như trên được xây dựng và đi vào
hoạt động có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp của tỉnh phát triển, làm cho việc
khai thác và sử dụng ruộng đất có hiệu qủa hơn. Nếu như trước kia các công
trình thuỷ nông lớn chưa được xây dựng thì những vùng trũng thường xuyên
bị ngập úng, những vùng cao thường xuyên thiếu nước, do đó, việc canh tác
rất khó khăn, nguồn tài nguyên đất đai bị bỏ phí. Từ khi có các công trình
thuỷ nông lớn đi vào hoạt động, công tác tưới tiêu được chủ động, cho nên
nhiều diện tích gieo cấy một vụ có thể chuyển thành hai vụ, tạo điều kiện cho
việc thâm canh trên đồng ruộng.
Để khai thác tốt hơn tiềm năng đất đai sẵn có và tăng năng suất cây
trồng, một loạt các biện pháp kỹ thuật đã được nông dân Thái Nguyên áp
dụng rộng rãi. Việc làm phân bón, làm ruộng thí nghiệm, phòng trừ sâu bệnh,
áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong lai tạo giống, thả bèo dâu… được thực
hiện. Ngoài phân chuồng, lượng phân hoá học được đưa vào sản xuất, các
giống lúa mới có năng suất cao được nghiên cứu, thử nghiệm và được đưa
vào trồng trên diện rộng. Để nắm được sơ bộ về khâu áp dụng tiến bộ kỹ thuật
trên đồng đất Thái Nguyên, chúng tui xin lấy ví dụ ở các huyện Đại Từ, Phú
Bình. Năm 1967, các huyện Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên, thành phố Thái
Nguyên diện tích ruộng được thả bèo hoa dâu tăng 1 855 ha so với năm 1966,
diện tích lúa cấy thẳng hàng tăng 1 957 ha, ngâm mạ kỹ thuật theo lò 540C và
chọn lọc giống tăng 12% đến 32,1%, diện tích lúa mới có năng suất cao tăng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
từ 11,9 lần, lượng phân hữu cơ bón cho lúa chiêm tăng 400 kg/ ha, bón
cho lúa mùa tăng 610 kg/ ha. [57, 51]
Như vậy, việc khai thác ruộng đất trong thời kỳ tập thể hoá ruộng đất
cũng như sản xuất nông nghiệp có những bước tiến hơn so với thời kỳ trước.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của Thái Nguyên vẫn chưa thoát khỏi tình
trạng lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Tình trạng quảng canh, độc
canh còn phổ biến mà lúa là cây trồng chủ yếu. Một số loại cây công nghiệp
và hoa màu khác có giá trị, phù hợp với thổ nhưỡng ở Thái Nguyên như: chè,
cà phê, đậu tương… lại chưa được đầu tư đúng mức. Cho nên, sự phát triển
nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế mà Thái Nguyên
đã có.
* Tiểu kết chương 1:
Thái Nguyên là một tỉnh có một vị trí rất quan trọng cả về kinh tế lẫn
quân sự. Đây là tỉnh đệm, nối các tỉnh miền núi phía Bắc với đồng bằng châu
thổ sông Hồng, vùng giàu tài nguyên, có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế
nông- lâm- công nghiệp và dịch vụ nhất là tiềm năng về nông nghiệp.
Tỉnh Thái Nguyên là địa bàn cư tụ lâu đời của nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số, nhưng đông nhất vẫn là người Kinh. Đây cũng là tỉnh thu hút nhiều
người dân di cư từ các tỉnh khác đến để sinh cơ lập nghiệp.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tại Thái Nguyên tồn tại chế độ
chiếm hữu và cách khai thác, bóc lột phong kiến đối với ruộng đất.
Giai cấp địa chủ là bộ phận bao chiếm nhiều ruộng đất, bóc lột bằng thuê
mướn nhân công và địa tô. Ngược lại, giai cấp nông dân, nhất là bộ phận bần,
cố nông lại không có ruộng hay ít có ruộng, do đó nguồn sống chính của họ
phải đi lĩnh canh ruộng đất và làm thuê, làm mướn. Trên thực tế, các làng bản
của Thái Nguyên vẫn tồn tại một bộ phận ruộng đất công và bán công. Ngoài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
ra còn một số ruộng đất của các nhà thờ. Đây là công cụ để các cha cố bóc
lột địa tô đối với giáo dân.
Khi đặt ách cai trị lên đất Thái Nguyên, thực dân Pháp đã thấy được
Thái Nguyên là một tỉnh có rất nhiều tiềm năng. Chúng đã thiết lập ở đây hệ
thống đồn điền đa canh và chuyên canh - một hình thức khai thác bóc lột
ruộng đất nhanh chóng và vốn đầu tư không lớn nhưng lại đạt hiệu quả kinh
tế cao.
Từ sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1957, ở Thái
Nguyên có sự biến đổi trong các hình thức sở hữu ruộng đất. Chế độ chiếm
hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, của phú nông từng bước được xoá bỏ
thông qua các chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà nước ta mà cao nhất vẫn
là cuộc Cải cách ruộng đất. Thông qua đó, chế độ sở hữu ruộng đất của nông
dân theo hình thức hộ gia đình được xác lập. Tuy nhiên, do nhận thức còn
cứng nhắ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status