Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ phân bón đến sự sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô nếp lai - pdf 18

Download miễn phí Khóa luận Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ phân bón đến sự sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô nếp lai



Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phương thì ngô ởViệt Nam tập
trung chủyếu vào hai loài phụchính là đá rắn và ngô nếp. Ngô nếp được
phân bố ởkhắp các vùng trong cảnước, với nhiều dạng màu hạt khác nhau:
Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập
và lưu giữ148 mẫu ngô nếp địa phương. Trong đó: 111 nguồn nếp trắng, 15
nguồn nếp vàng, 22 nguồn nếp tím, nâu, đỏ(Nguyễn ThịNhài, 2005)[10].



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

biến tự nhiên hay nhân tạo như donor. Ngoài ra, các nhà khoa học
cũng rất quan tâm đến nguồn gen cây ngô địa phương trong đó có nguồn gen ngô nếp
phục vụ tạo giống. Từ nguồn vật liệu ban đầu, thông qua tự phối và chọn lọc cá thể,
dựa vào nội nhũ và các đặc tính nông sinh học khác để tạo ra dòng nếp thuần. Để tạo
các đồng đẳng ngô nếp từ nguồn ngô thường, người ta cho lai ngô nếp và ngô thường,
sau đó tiến hành lai lại và kiểm tra bằng phân tích hạt qua phản ứng với dung dịch KI.
Bằng cách này, các nhà khoa học đã tạo ra khá nhiều dòng và giống nếp lai mới.
Chúng được trồng cách ly với các loại ngô khác để đảm bảo chất lượng.
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN
Svth: Phạm Văn Ba-k32E 14
Người ta cho rằng ngô nếp ưu thế lai cũng như ngô chất lượng protien cao,
năng suất giảm đi so với ngô ưu thế lai bình thường, và giả thuyết cho rằng tích
lũy mật độ hạt tinh bột thấp, nội nhũ mềm và khối lượng hạt thấp hơn. Năm
1990 mục tiêu chương trình tạo giống ngô nếp ưu thế lai và ngô có chất lượng
protein của Argentina được bắt đầu và sau đó 1 vài dòng thuần được phát triển
và thử khả năng phối hợp giữa các dòng tự phối tốt nhất và vụ ngô năm 2001/02
một số tổ hợp lai đơn được thử nghiệm. Số tổ hợp phân thành 3 nhóm là :
- Ngô nếp ưu thế lai
- Ngô chất lượng protein cao
- Tổ hợp lai kép cải thiện tinh bột của ngô chất lượng protein
Những thử nghiệm mới đã được thực hiện ở nhiều điểm đã nhận được
những kết quả ngạc nhiên với những lai đơn mới trên cơ sở lựa chọn dòng bố
mẹ tự phối thuần như trên đã cho năng suất cao, cải thiện tinh bột, chất lượng
protein và thích nghi tốt.
Ngô nếp được trồng nhiều nhất ở Mỹ, nhưng phần lớn diện tích được trồng
phần lớn ở miền trung Illois và Indian, phía bắc của Iowa. Diện tích ngô nếp hàng năm
của Mỹ khoảng 290000 ha, chủ yếu diện tích này là trồng nếp vàng, nhưng gần đây có
một số diện tích nhỏ được trồng bằng nếp trắng.
Ở các nước phát triển như Mỹ việc chọn tạo giống ngô nếp tập trung chọn
tạo giống ngô nếp ưu thế lai, năm 2003 có 12 công ty hạt giống chào bán các tổ
hợp ngô nếp ưu thế lai được kinh doanh trên thị trường. Trong tương lai nước
Mỹ có xu hướng trồng ngô nếp rộng rãi đồng thời để các nhà chế biến chấp nhận
giống ngô nếp không biến đổi gen (non-GMO ) để xuất khẩu sang Châu Âu.
Mặc dù đã trải qua thời gian rất dài nhưng việc sản xuất ngô nếp thương mại
vẫn gặp rất nhiều vấn đề: thiếu những dạng đối chứng cho những dạng ngô đặc biệt,
tiềm năng năng suất của các giống ngô nếp lai nhìn chung là thấp hơn so với ngô tẻ,
biến động tuỳ từng trường hợp vào đất trồng, trung bình đạt từ 65-75% so với ngô tẻ thường.
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN
Svth: Phạm Văn Ba-k32E 15
Theo thông tin từ hội nghị ngô châu Á lần thứ 9 tại Bắc Kinh – T9/2005, Trung
Quốc đã tạo ra khá nhiều giống ngô nếp lai cho năng suất cao và chất lượng
ngon. Như: Giống nếp lai đơn màu trắng JYF101, năng suất trung bình 15 tấn
bắp tươi/ha; Nếp trắng lai đơn Yahejin 2006 cho năng suất tươi tới 20 tấn/ha;
giống nếp lai đơn màu tím Jinkenou 218 đạt 12 tấn bắp tươi/ha.
Ngô nếp được dùng vào các mục đích khác nhau như ăn tươi, đóng hộp, chế
biến tinh bột… Nhìn chung có hai cách sử dụng chính là làm thực phẩm và chế
biến tinh bột. Ở Mỹ và các nước phát triển phần lớn ngô nếp được sử dụng để chế
biến tinh bột, dùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm, keo dán, chất hồ dính,
công nghiệp dệt, công nghiệp giấy, lên men sản xuất cồn, chế siro…
Nhờ những tính chất đặc biệt mà hiện nay con người sử dụng ngày càng
nhiều và phạm vi sử dụng tinh bột ngô nếp càng được mở rộng. Tinh bột ngô nếp
còn được dùng như một dạng sữa ngô làm đồ gia vị cho món salad.
2.3.2. Nghiên cứu và sử dụng ngô nếp ở Việt Nam.
Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phương thì ngô ở Việt Nam tập
trung chủ yếu vào hai loài phụ chính là đá rắn và ngô nếp. Ngô nếp được
phân bố ở khắp các vùng trong cả nước, với nhiều dạng màu hạt khác nhau:
Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ…Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập
và lưu giữ 148 mẫu ngô nếp địa phương. Trong đó: 111 nguồn nếp trắng, 15
nguồn nếp vàng, 22 nguồn nếp tím, nâu, đỏ (Nguyễn Thị Nhài, 2005)[10].
Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, những nghiên cứu chủ yếu vẫn là ngô tẻ,
các nghiên cứu về ngô nếp rất hạn chế. Cho tới nay, chỉ có một số công trình được công bố:
Công trình của Nguyễn Thị Lâm và Trần Hồng Uy [7] tiến hành phân loài phụ cho
72 giống ngô nếp địa phương. Trong đó 48 mẫu nếp trắng, 8 mẫu nếp vàng, 16 mẫu nếp
tím. Kết quả cho thấy, biến chủng nếp tím có thời gian sinh trưởng, chiều cao cây,
chiều cao đóng bắp và số lá lớn hơn cả.
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN
Svth: Phạm Văn Ba-k32E 16
Tác giả Ngô Hữu Tình và Nguyễn Thị Lưu [12] đã chọn tạo thành công
giống ngô nếp trắng tổng hợp được công nhận giống quốc gia năm 1989. Giống
này có thời gian sinh trưởng ngắn, khả năng thích ứng rộng, được trồng khá phổ
biến ở Miền Bắc.
Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam dùng phương pháp chọn lọc
chu kỳ từ tổ hợp lai giữa hai giống nếp tổng hợp nhập nội từ Philipin đã tạo ra giống
nếp trắng ngắn ngày S2, năng suất trung bình 20-26 tạ/ha, được công nhận năm 1989.
Tác giả Phan Xuân Hào và cộng sự đã chọn tạo thành công giống ngô nếp trắng
VN2, được công nhận giống quốc gia năm 1997. VN2 được chọn tạo từ các giống ngô
nếp ngắn ngày, năng suất khá, chất lượng tốt, có nguồn gốc khác nhau: Nếp Tây Ninh,
Nếp Quảng Nam – Đà Nẵng, Nếp Thanh Sơn – Phú Thọ và Nếp S-2 từ Philipin. Đây
là giống ngắn ngày, chất lượng dinh dưỡng cao, khả năng thích ứng rộng, năng suất
bình quân đạt 30 tạ/ha (Phan Xuân Hào và cs, 1997) [6].
Phạm Thị Rịnh và cộng sự ở phòng Nghiên cứu Ngô Viện KHKTNN miền
Nam đã tạo được giống ngô nếp dạng nù TPTD cải tiến N1 từ 2 quần thể ngô nếp
nù địa phương ở Đồng Nai và An Giang. N1 đã được công nhận giống quốc gia
năm 2004. Đây là giống ngô nếp ngắn ngày, có tiềm năng năng suất cao 40-50 tạ
hạt khô/ha, thích hợp trồng ở các tỉnh phía Nam.
Các tác giả Nguyễn Hữu Đống, Phan Đức Trực, Nguyễn Văn Cương - Viện Di
Truyền Nông nghiệp, và Ngô Hữu Tình - Viện Nghiên cứu Ngô đã gây đột biến bằng
tia gama, kết hợp với xử lý Diethylsulphat ở ngô nếp thu được một số dòng biến dị có
các đặc tính nông học quý so với giống ban đầu (Nguyễn Hữu Đống và cs, 1997) [3].
Thời gian gần đây, các nhà tạo giống Việt Nam bắt đầu chuyển hướng sang
tạo giống nếp lai và đã tạo được một vài giống nếp lai không quy ước có triển vọng
như: MX2, MX4 của Công ty cổ phần Giống cây trồng Miền Nam, Bạch Ngọc của
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN
Svth: Phạm Văn Ba-k32E 17
công ty Lương Nông. Ngoài ra, một số giống nếp lai quy ước được trồng ở các tỉnh
phía Nam, phần lớn có nguồn gốc từ Đài Loan, Thái Lan, và ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status