Nghiên cứu dự phòng suy hô hấp ở sơ sinh non tháng bằng corticoide cho mẹ trước sinh - pdf 18

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Chương I
Đặt vấn đề

Suy hô hấp là nguyên nhân nằm viện phổ biến của trẻ sơ sinh non tháng. Tỷ lệ suy hô hấp càng cao khi trẻ càng non tháng. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự kém trưởng thành của phổi và sự xuất hiện hội chứng màng trong đóng vai trò quan trọng trong suy hô hấp ở trẻ sơ sinh non tháng. Các biện pháp thở oxy thở máy, dùng surfactant nhân tạo có hiệu quả trong điều trị suy hô hấp nhưng tốn kém và chỉ là các biện pháp điều trị không có ý nghĩa phòng bệnh. Mặt khác, dù sử dụng các biện pháp điều trị trên, tỷ lệ tử vong của trẻ non tháng do suy hấp vẫn rất cao do phổi chưa trưởng thành hay do xuất hiện hội chứng màng trong. Hiệu quả của điều trị có thể tăng lên nếu điều trị Corticoide cho bà mẹ trước khi cuộc đẻ non diễn ra. Corticoide đã được chứng minh là có tác dụng thúc đẩy quá trình trưởng thành phổi và làm giảm sự xuất hiện hội chứng màng trong nên làm giảm suy hô hấp ở trẻ non tháng 3 14.
Một số nghiên cứu lâm sàng đã ủng hộ việc sử dụng Corticoide để dự phòng suy hô hấp ở trẻ non tháng nhưng một số khác không đồng tình do lo ngại trước vấn đề nhiễm khuẩn. Tuy nhiên hầu hết các báo cáo này đều của nước ngoài với phương pháp nghiên cứu và số lượng khác nhau.
ở Việt Nam cũng như tại Viện bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh hiện có rất ít công trình nghiên cứu về dự phòng suy hô hấp ở sơ sinh non tháng bằng Corticoide trước sinh mặc dù trên lâm sàng thuốc này đã được sử dụng. Do vậy, nhằm góp phần làm sáng tỏ vấn đề này, chúng tui tiến hành nghiên cứu đề tài:

Nghiên cứu Dự phòng suy hô hấp ở sơ sinh non tháng bằng corticoide cho mẹ trước sinh
Mục đích nghiên cứu

Đánh giá tác dụng của Corticoide trước sinh trong dự phòng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh non tháng.

Chương II
Tổng quan tài liệu

2.1. Định nghĩa đẻ non
Đẻ non là khi trẻ được sinh ra ở tuổi thai từ 28-37 tuần
2.2. Cơ chế bệnh sinh
2.2.1. Sự thích nghi của cơ quan hô hấp ở trẻ sơ sinh sau sinh
a. Sự thiết lập động tác thở đầu tiên
Khi còn là bào thai, hai phổi hầu như không hoạt động. Khi ra đời, muốn có tiếng khóc, trẻ phải có động tác thở đầu tiên. Hiện nay, có ba giả thuyết giải thích hiện tượng này.
+ Thuyết cơ giới:
Sau khi đẻ, các yếu tố bên ngoài tử cung như sự thay đổi áp lực không khí, nhiệt độ môi trường, sự kích thích va chạm vào da, không khí tràn vào đường hô hấp ... được hệ tiếp thu ngoại vi tiếp nhận, kích thích phản xạ thở xuất hiện nhanh. Để chứng minh điều này, người ta chỉ rõ trẻ hít mạnh khi có sự va chạm vào da trẻ (bàn tay người đỡ, cành forceps...) mặc dù cuống rau chưa bị cắt.
+ Thuyết sinh hoá: Sau khi kẹp cắt cuống rau, trong máu trẻ PaO2 giảm và PaCO2 tăng một cách đột ngột, đồng thời thay đổi pH máu kích thích trung tâm hô hấp làm trẻ thở.
+ Thuyết sinh vật: Phổi bào thai chứa một ít chất lỏng giống nước ối làm cho các phế nang không hoàn toàn bị xẹp. Sau đẻ các chất lỏng này được rút đi trên 60% qua đường bạch mạch, số còn lại qua ống hô hấp ra ngoài góp phần tạo áp lực âm của phổi do đó không khí từ ngoài tràn vào phổi.
b. Hoạt động của phổi sau sinh:
Phổi muốn hoạt động và duy trì được hô hấp phải có một số thay đổi như sau:
+ Tạo dung tích dự trữ cơ năng:
Lúc trẻ thở ra, phổi giữ lại trong phế nang một thể tích khí nhất định. Thể tích này cùng với thể tích khí cặn tạo thành dung tích dự trữ cơ năng. Nhờ dung tích này mà sự trao đổi khí được liên tục và các phế nang không bị xẹp lại làm cho các lần thở sau dễ dàng tiến tới điều hoà ổn định nhịp thở.
+ Tạo ra sức căng bề mặt phế nang để các phế nang không xẹp lại: Phổi bào thai có một màng nước bao trùm các biểu mô làm cho thành trong các phế nang và các tiền phế quản dính vào nhau. Hiện tượng này sẽ tồn tại mãi nếu phổi không tạo được dung tích dự trữ cơ năng. Muốn duy trì dung tích cơ năng thì phế nang không được xẹp lại, muốn phế nang không xẹp lại thì phải có một chất phủ bề mặt thành trong các phế nang đó là chất surfactant mà trẻ phải tạo được.


WW3t2xL70r5EbbB
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status