Báo cáo Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty xuất nhập khẩu TOCONTAP Hà Nội - pdf 18

Download miễn phí Báo cáo Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty xuất nhập khẩu TOCONTAP Hà Nội



Tại thị trường Châu á hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty đã xuất hiện ở 4 nước là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào. nhật trở thành bạn hàng của Công ty từ năm 1992 nhưng số lượng mua không lớn và không ổn định. Năm 1999 Công ty chỉ xuất được 26.000 USD hàng gốm sứ. Trong khi kim ngạch XNK của mặt hàng này của Việt Nam khoảng 5 triệu USD và nhu cầu nhập của Nhật là 800 triệu đồ gốm và 200 triệu đồ gốm sứ. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng đây không phải là thị trường xuất khẩu chính mà còn các nước khác như Trung Quốc, Indonexia, Philipin. nên cạnh tranh rất gay gắt.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

,4
1998
120.000
204.872,0
164,0
44
1999
90.000
104.842,0
116,5
-48,8
2000
150.000
185.372,0
123,6
76,8
2001
170.000
286.380,0
168,5
54,5
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Vượt qua những khó khăn trong hai năm 1995 và 1996 doanh thu của công ty đã tăng trở lại từ 81,821 tỷ đồng năm 1996 lên 142,542tỉ đồng năm 1997. So với kim ngạch xuất nhập khẩu là 25,087triệu USD thì mức doanh số này chưa cao vì các hoạt động phần lớn là uỷ thác(chiếm 50,5% giá trị xuất nhập khẩu). Nếu công ty tư thì doanh thu phải là 300tỉ đồng. Sang năm 1998, doanh thu đạt mức tăng kỷ lục trong những năm gần đây với 204,872tỉ đồng, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra là 84,872tỉ đồng(vượt 64%). Năm 1999 hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của công ty nói chung bị ảnh hưởng của các luật thuế mới và nhất là thuế VAT. Do thuế VAT không được hạch toán vào doanh thu nên doanh thu giảm xuống, tỷ lệ nộp thuế VAT tăng gấp 10 lần so với thuế doanh thu(các năm trước công ty nộp thuế doanh thu bằng 15% chênh lệch giữa giá bán và giá mua, chỉ chiếm khoảnh 0,68% doanh thu) nên đã đẩy giá bán lên, dẫn đến không bán được hàng. Với nhữnh lí do trên doanh thu của công ty giảm xuống đáng kể còn 104,82 tỷ đồng mặc dù vẫn đạt kế hoạch đặt ra.
Năm 2000 do kim ngạch XNK phục hồi trở lại nên doanh thu cũng đã tăng trở lại 185,372 tỷ đồng tăng 76,8%.
Sang năm 2001, doanh thu của Công ty cũng tăng nhưng tốc độ chậm hơn năm 2000. Tuy vậy, mức doanh thu vẫn đạt kỉ lục trong một thập kỉ qua với mức 286.380 tỷ đồng, cũng là mức doanh thu tương đối cao so với kim ngạch XNK. Nhìn chung năm qua doanh thu của Công ty đã vượt mức kế hoạch đề ra, từ năm 1999 doanh thu giảm do ảnh hưởng của chính sách Nhà nước, còn lại các năm luôn đạt mức cao, do vậy chiến lược kinh doanh của Công ty luôn được đảm bảo thực hiện tốt.
Chỉ tiêu chi phí.
Chí phí hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí kinh doanh nhiều hay ít phụ thuộc vào khối lượng hàng hoá kinh doanh, một phần phụ thuộc vào ý thức tiết kiệm, chống lãng phí của cán bộ công nhân viên. Chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận do đó giảm chi phí để tăng lợi nhuận là mục đích của mọi doanh nghiệp.
Bảng 2: Tình hình chi phí kinh doanh của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Giá trị
%DT
Giá trị
%DT
Giá trị
%DT
Giá trị
%DT
Giá trị
%DT
Chi phí KD
4.917
6,5
5.736,5
2,7
2.639,0
2,5
11.425
6,1
19.917
6,9
CP trực tiếp
3.991,2
4,8
4.712,1
2,2
2.096,8
2,0
9.369
5,0
17.854
6,2
CP gián tiếp
925,8
1,7
1024,4
0,5
542,2
0,5
2.056
1,1
2.063
0,7
Nguồn : Phòng tài chính – kế toán
Năm 1996 chi phí kinh doanh của Công ty là 5.360,3 triệu đồng, trong đó chi phí quản lý là 1.415 triệu đồng, chi phí trực tiếp là 3.945,3 triệu đồng. So với năm khác ta thấy chi phí kinh doanh của năm 1996 gần bằng mức chi của năm 1998 và cao hơn chi phí bỏ ra các nă 1997, 1999 thế nhưng doanh số năm 1996 lại nhỏ nhất, chỉ bằng 40% năm 1999, chi phí kinh doanh năm 1996 bằng 6,5 daonh thu và nếu như năm 1997 tính theo tỉ lệ này Công ty sẽ phải bỏ ra 9.265,3 triệu đồng. Nhưng thực tế, Công ty chỉ phải chi 4.917 triệu đồng tức là tiết kiệm được 4,3 tỉ đồng. Nhưng thực tế cho thấy, việc chi tiêu của Công ty đã hiệu quả hơn, tỉ lệ chi phí trên doanh số đã giảm xuống rõ rệt còn 2,7% năm 1999. Sở dĩ Công ty tiết kiệm được một lượng tương đối lớn là do cơ chế khoán kinh doanh đem lại, việc khoán lãi đến từng phòng kinh doanh tức là hạch toán được thực hiện ở cấp phòng. Điều này khiến các phòng phải tiết kiệm chi phí, cắt bỏ các khoản chi không cần thiết, sử dụng các trang thiết bị, công cụ và thực hiện công việc có hiệu quả hơn. các cán bộ có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng vốn, chấm dứt tình trạng sử dụng tuỳ tiện lãng phí hay vào mục đích riêng. Tạo cho cán bộ công nhân viên một tinh thân chống lãng phí để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Sang năm 2000 và 2001 do công ty phải chi phí cho việc giới thiệu sản phẩm sang thị trường mới, thường xuyên cử cán bộ đi triển lãm sản phẩm ở nước ngoài, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên nên chi phí kinh doanh đã chiếm phần lớn trong doanh thu. Đặc biệt năm 2001 chi phí kinh doanh chiếm 6,9% doanh thu bằng 19,917 tỷ dồng, chi phí trực tiếp 17,854 tỷ đồng, chi phí gián tiếp 2,063 tỷ đồng cao nhất trong 5 năm trở lại đây.
C, Chỉ tiêu lợi nhuận.
Mặc dù trong thời gian qua tình hình kinh doanh của Công ty còn nhiều biến động, thể hiện qua kim ngạch XNK, nhưng Công ty vẫn là đơn vị kinh doanh có lãi.
Bảng 3 : Một số chỉ tiêu tài chính của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Lợi nhuận
1.566,7
1799,5
1.186,8
2.022
2.100
Nộp ngân sách
16.971,8
29.969
22.617,8
45.888
33.336
Thuế XNK
14.491,7
26.892
9.865
15.966
15.910,3
Thuế VAT
-
-
10.986
24.374
11.860
Thuế TTDB
913,4
1.277,4
581
3.829
3.815
Thuế lợi tức
705
809,8
379,3
647
670
Thu SD vốn
861,7
989,7
806,5
1.069,6
828
Phải nộp khác
-
-
-
2,4
252
Nếu như vào năm 1995, khó khăn nhất kinh doanh chỉ hoà vốn thì đến năm 1996 lợi nhuận thu được là 465,14 triệu đồng và năm 1997 đạt mức cao là 1566,7 triệu đồng tăng 56,67 so với kế hoạch đề ra. Đạt được kết quả này trong bối cảnh thương trường cạnh tranh hết sức khốc liệt, nhiều yếu tố khó khăn khách quan, trước hết do sự cố gắng của cán bộ nghiệp vụ kinh doanh. Nếu như năm 1996 chỉ có 30% cán bộ nghiệp vụ có hợp đồng thì đến năm 1997 con số này là 80%. Ngoài ra còn phải kể đến chính sách tiết kiệm, chống lãng phí được quán triệt, giảm được cả chi phí trực tiếp lẫn chi phí gián tiếp, đã góp phần tích cực trong việc nâng cao lợi nhuận.
Ta thấy trong 5 năm qua Công ty luôn giữ được mức tăng lợi nhuận mức tăng trung bình là 31,8% từ năm 1999 lợi nhuận Công ty giảm 34% so với năm 1998. Như vậy lợi nhuận giảm nhưng tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu vẫn tăng so với năm 1998 diều này chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của Công ty càng ngày càng tăng luôn vượt mức kế hoạch đề ra.
Mặc dù có nhiều biến động về kinh tế, tiền tệ và mọi mặt ở các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới, Công ty vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh, đảm bảo nhịp độ phát triển, lợi nhuận năm 1998 đạt 1799,5 triệu đồng tăng 14,8% so với năm 1997 và bằng 108,2% kế hoạch được giao. Đây là kết quả tất yếu của cơ chế quản lý kinh doanh đúng hướng.
Kế hoạch lợi nhuận Bộ giao cho Công ty trong năm 1999 phải đạt 1300 triệu đồng. Nhưng do doanh thu từ hoạt động uỷ thác giảm rõ rệt (Từ mức chiếm 51,8% trong năm 1998 xuống 32% kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1999 ) đã ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh. Mặt khác tình hình thị trường ngày càng khó khăn, sức mua giảm thị trường kém sôi động khiến tỉ suất lợi nhuận trong kinh doanh mỗi ngày một thấp, tác động xấu đến kết quả kinh doanh.
Là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh đúng pháp luật nên Công ty luôn luôn nghiêm chỉnh chấp hành nộp ngân sách cho Nhà nước. Năm 1998 nộp cho Nhà nước là 29,969 tỉ đồng.
Do tình hình xuất nhập khẩu trong năm 1999 của Công ty giảm sút nên thuế xuất nhập khẩu cũng giảm xuốn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status