Chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Dệt May Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2020 - pdf 18

Download miễn phí Khóa luận Chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Dệt May Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2020



Đánh giá một cách tổng quát trong toàn bộ nền kinh tế, ngành Dệt May Việt Nam đã phát triển khá ấn tượng trong những năm gần đây về công suất cũng như kim ngạch xuất khẩu. Ngành đã có thể tự khẳng định mình là một lĩnh vực quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp của đất nước. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh cạnh tranh với các nước như Trung Quốc, Indonesia, Pakistan., ngành Dệt May Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong những năm sắp tới, với lý do là vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Dệt May Việt Nam trên thương trường quốc tế quá yếu.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

động tương đối hiệu quả do Việt Nam có một vị trí địa lý thuận lợi nằm ở cửa ngõ Đông Nam Châu á, có bờ biển dài. Lợi thế này giúp các doanh nghiệp giảm chi phí trong vận tải và giao nhận hàng hoá với nước ngoài.
Thứ tư, các cơ sở sản xuất đã được trang bị và tự trang bị những máy móc, thiết bị tương đối hiện đại, đáp ứng được nhu cầu sản xuất các lô hàng lớn, đòi hỏi chất lượng cao, giá thành rẻ, giao hàng nhanh.
Thứ năm, hàng Dệt May đóng vai trò là một trong 10 mặt hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam, nên, Nhà Nước và Chính phủ tạo rất nhiều điều kiện ưu đãi cho ngành Dệt May phát triển. Cụ thể:[3]
Nhà Nước đã ban hành chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, cho phép các xí nghiệp được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp; sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài 1987 và Luật sửa đổi, bổ sung đầu tư nước ngoài 1999 đã tạo điều kiện cho ngành Dệt May thu hút được một số vốn đầu tư nước ngoài; sự ra đời của Tổng công ty Dệt May Việt Nam đã mở rộng kịp thời thị trường mới sang Nhật Bản, EU và các nước ASEAN...; sự ra đời của Hiệp hội dệt may Việt Nam đã tăng thêm sức mạnh thống nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Đặc biệt, Quyết định 908/QĐ - TTg do Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm ký ngày 26/07/2001 đã có những tháo gỡ cụ thể cho ngành như: cho phép chuyển 20 trong số 29 mã dệt may vào thị trường EU từ cấp hạn ngạch sang cấp giấy phép tự động; giảm 50% phí đấu thấu hạn ngạch, hạ phí hạn ngạch để tăng khả năng cạnh tranh; ưu đãi về thuế theo quy định hiện hành trong lĩnh vực gia công hay sản xuất hàng xuất khẩu; miễn thuế trong vòng một năm toàn bộ lệ phí hải quan và lệ phí hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu, giấy chứng nhận xuất xứ; xem xét và hoàn trả 100% tiền ký quỹ trúng thầu hạn ngạch; giảm 50% phí đấu thầu hạn ngạch, hạ phí hạn ngạch để nâng cao năng lực cạnh tranh.....
So với các ngành khác, Chính phủ có sự ưu tiên về vốn đầu tư cho ngành dệt may để tập trung đổi mới trang thiết bị trong ngành dệt may. Hiện nay, tổng vốn đầu tư của VINATEX đạt gần 4.000 tỷ đồng. Đây là một lợi thế giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có sự chủ động lớn trong việc mua sắm và nâng cao trang thiết bị hiện đại, kiện toàn bộ máy sản xuất và quản lý hành chính,....
Những chính sách trên đây của Chính phủ là phù hợp với yêu cầu đặt ra của ngành dệt may Việt Nam và đã được các doanh nghiệp tiếp thu áp dụng triệt để trong việc cố gắng nâng cao lợi thế của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Điểm yếu.
Giá trị gia tăng thấp.[13,22]
Xuất khẩu may mặc của Việt Nam bị chi phối bởi cách uỷ thác sản xuất hàng may mặc hay được gọi là cách CMT. Ngành may mặc chịu sự kiểm soát của các công ty có trụ sở tại Hong Kong, Hàn Quốc và Đài Loan. Các công ty này sử dụng Việt Nam với tư cách là một cơ sở gia công. Họ cung cấp toàn bộ vải, phụ kiện và mẫu mã. Chúng ta chỉ có nhiệm vụ gia công, giao thành phẩm, và nhận tiền công. cách CMT có đặc điểm là phụ thuộc rất lớn vào người mua, do đó cách này trên thực tế tạo ra ít giá trị gia tăng, bởi vì lợi nhuận mà chúng ta thu về được chỉ là tiền công trả cho khâu gia công mà thôi.
cách giao dịch theo điều kiện FOB là một cách thức thúc đẩy tăng giá trị gia tăng trong nước. Nhưng cách này đòi hỏi phải có mối liên hệ trực tiếp với người mua cuối cùng, phải có kiến thức và kinh nghiệm trong việc tìm nguồn hàng cung cấp vải, phụ kiện và nguồn vốn. Với những đòi hỏi này thì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được. Hơn nữa, rủi ro của cách giao dịch này lại cao, ví dụ như nếu chất lượng của hàng không đồng bộ dẫn đến hàng bị từ chối, giao hàng chậm dẫn đến việc bị huỷ các đơn đặt hàng hay bị phạt thì hậu quả khắc phục của nó là rất lớn. Do đó, cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn rất ngần ngại trong việc triển khai thực hiện xuất khẩu hàng hoá theo cách FOB.
Một nguyên nhân nữa làm cho giá trị gia tăng thấp là do năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam thấp. Theo số liệu của Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có năng lực lớn hơn các doanh nghiệp trong nước về sản xuất do thế mạnh về công nghệ và đầu tư vốn.[Bảng 7,1]
bảng 7: năng lực sản xuất một số sản phẩm dệt may việt nam
Chỉ tiêu
ĐVT
Doanh nghiệp trong nước
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Cộng
Sợi dệt
Tấn
70.000
90.000
160.000
Vải lụa
Triệu m2
380
420
800
Dệt kim
Triệu sp
31
8
39
Hàng may mặc sẵn.
Triệu sp
280
120
400
Nguồn: Tổng công ty Dệt May Việt Nam VINATEX.
Mặc dù, giai đoạn 1991 - 1995, toàn ngành dệt may đã đầu tư 1.485 tỷ đồng, trong đó vốn vay nước ngoài chiếm 28%, vay trong nước 47%, vốn khấu hao cơ bản và các nguồn vốn khác 22%, vốn ngân sách cấp 2,7%. Từ năm 1996 đến nay, toàn ngành đã tập trung đầu tư vào việc nâng cấp chất lượng vải cho xuất khẩu và sản xuất phụ liệu may. Nhiều thiết bị công nghệ mới đã được lắp đặt, các sản phẩm hàng hoá đa dạng hơn cả về chủng loại và kiểu cách. Nhưng đi sâu vào từng khâu đổi mới công nghệ thì chúng ta sẽ hiểu rõ hơn vì sao chúng ta vẫn không thể tăng giá trị gia tăng cho ngành dệt may trong những năm vừa qua:
Về trang thiết bị công nghệ dệt:[1,13,22]
Máy móc thiết bị của ngành dệt phần lớn vẫn lạc hậu, và thiếu đồng bộ giữa các khâu, do chúng có xuất xứ từ nhiều nước. Ngành dệt có gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm nên hư hỏng nhiều, mất chức năng vận hành tự động, năng suất thấp, chất lượng kém, giá thành sản xuất cao. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi, mà phần lớn lại là các máy dệt thoi khổ hẹp (0,8-0,9 m), chủng loại cùng kiệt nàn, vải làm ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp, chỉ có khoảng 26- 30% là cọc sợi chải kỹ với chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp, vì vậy chưa thể đáp ứng nhu cầu về chất lượng của chính ngành dệt trong nước. Điều này làm cho một số công ty có nhu cầu về sợi chất lượng cao vẫn phải nhập khẩu.
Do đầu tư vào ngành dệt đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, nguồn vốn tín dụng đầu tư lại hạn chế, thị trường sản phẩm không lớn, nên các doanh nghiệp không muốn vay vốn để đổi mới công nghệ hay để đầu tư đồng bộ.
Trong lĩnh vực in nhuộm, các dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu, phần lớn thiết bị hiện nay chỉ có thể nhuộm được những loại vải khổ hẹp, nhưng lại tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm và điện năng, dẫn đến chi phí khá cao. Thiết bị nhộm hoàn tất và in hoa chỉ có khoảng 10% là hiện đại và tương đối hiện đại. Khoảng 35% số thiết bị hiện có cần được nâng cấp và số còn lại cần cải tiến và thay thế dần. Hầu hết thiết bị và công nghệ in nhuộm đều được nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đức...., ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status