Mối quan hệ giữa môi trường với tăng trưởng kinh tế xã hội - pdf 19

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
1.2. Phân phối lại các loại tài sản một cách năng động bằng cách khuyến khích hình thành các loại tài sản mà người cùng kiệt có thể sở hữu được:
Một trong những nguyên tắc quan trọng giúp giảm đói cùng kiệt là trao cho người cùng kiệt quyền tự chủ trong sản xuất vì đó chính là động lực giúp người cùng kiệt phấn đấu làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn để vươn lên thoát nghèo. Quyền tự chủ ở đây được hiểu là quyền tự quyết định sản xuất sản phẩm gì, cho ai, sản xuất như thế nào và phân phối ra sao. Ngoài ra, quyền tự chủ còn là quyền sở hữu, quyền tự định đoạt tài sản, đất đai, tư liệu sản xuất...Hiệu quả của mô hình này đã được kiểm chứng một cách cụ thể thông qua lịch sử của đất nước ta, những năm trước đổi mới, tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn, sản xuất nông nghiệp theo cách tập trung hợp tác xã, hiệu quả thấp kém, phân phối cào bằng, làm thui chột đi động lực sáng tạo trong sản xuất, đời sống nhân dân đói kém, vất vả. Kể từ ĐH Đảng lần thứ X, sau khi tiến hành chủ trương cải cách, khoán đất cho nông dân, tạo cho người nông dân được quyền sở hữu và sản xuất trên chính mảnh ruộng của mình, điều đó đã thực sự thúc đẩy họ hăng say sản xuất, hăng say làm việc, từ đó nâng cao năng suất lao động,gia tăng thu nhập, giảm cùng kiệt đói và thực hiện công bằng xã hội.
1.3. Tăng cường giáo dục để nâng cao hiểu biết, kỹ năng và khả năng tiếp cận với nền kinh tế hiện đại.
Trong thế kỷ XXI, thời đại mà khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, và thay đổi từng ngày thì tri thức khoa học càng trở nên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tri thức là chìa khóa để con người nắm bắt thành công những tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra thêm nhiều của cải cho xã hội, từ đó nâng cao thu nhập cho người lao động và từng bước tiến tới giảm đói nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Chính vì lẽ đó, việc tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo, nâng cao kỹ năng, rèn luyện tay nghề và tạo điều kiện để giúp người cùng kiệt được tiếp cận với tri thức, kiến thức và giúp họ tự vươn lên thoát cùng kiệt được xác định là một mục tiêu có ý nghĩa chiến lược, hết sức quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc trong công tác xóa mù chữ mà cả thế giới đều công nhận và đánh giá cao như là một hình mẫu để các nước đang phát triển khác học tập, noi theo. Cụ thể, năm 1990, tỷ lệ mù chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 9,49% , đến năm 2000, giảm xuống chỉ còn 6,61% trong khi các quốc gia khác trong khu vực lên tới 12% - 15%.
1.4. Hệ thống thuế lũy tiến cao hơn:
Bên cạnh mục tiêu tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, để tiến tới giảm đói cùng kiệt và thực hiện công bằng xã hội, chính phủ cũng đã thực hiện đồng thời nhiều biện pháp khác nhằm xóa bỏ sự bất công bằng trong phân phối thu nhập, cụ thể là tăng cường nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống thuế theo hướng xóa bỏ dần các loại thuế gián thu không cần thiết, tạo điều kiện cho người cùng kiệt được mua sắm hàng hóa với giá rẻ hơn, từ đó góp phần nâng cao đời sống xã hội. Bên cạnh đó, chuyển sang hình thức thuế trực thu với mức thuế lũy tiến dần theo quy mô thu nhập và mở rộng đối tượng thu thuế. Như vậy, một mặt vẫn đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác tạo nên sự công bằng hơn trong toàn xã hội. Đây là mô hình đã phát huy hiệu quả cao ở các nước tiên tiến và ngày nay, hầu hết các quốc gia đang phát triển khác trên thế giới đều học tập theo mô hình này.
1.5. Cung cấp công khai các loại hàng hóa tiêu dùng cho người nghèo, chẳng hạn như các loại lương thực cơ bản:
Để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, chính phủ cũng không quên chú trọng tới công tác bảo trợ xã hội, bằng việc thành lập các quỹ vì người cùng kiệt và tích cực vận động quần chúng nhân dân, các ban ngành, tổ chức trong xã hội ủng hộ cho quỹ. Nguồn quỹ này được phân bổ cụ thể cho từng địa phương, vùng miền tùy theo mức độ khó khăn và tỷ lệ hộ cùng kiệt để hàng năm, tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà, lương thực, thực phẩm nhằm giúp đỡ người cùng kiệt nâng cao chất lượng cuộc sống.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng chú trọng tới việc đầu tư phát triển các hệ thống y tế, giáo dục, hàng hóa dịch vụ công nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu học tập, khám chữa bệnh cho nhân dân với chất lượng tốt và chi phí rẻ nhất. Đây cũng là một trong những quyết sách đúng đắn và được nhân dân nhiệt tình ủng hộ.
1.6. Can thiệp vào thị trường hàng hóa và dịch vụ để hỗ trợ người sản xuất cũng như người tiêu dùng nghèo:
Bằng sức mạnh của mình, Nhà nước cũng đã can thiệp vào thì trường hàng hóa, dịch vụ nhằm dẫn dắt thì trường hoạt động theo trật tự và đảm bảo công bằng cho cả người tiêu dùng và người sản xuất. Thông qua hệ thống các công ty, tập đoàn nhà nước, Nhà nước đã chi phối một số thì trường hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu như điện, nước, xăng dầu... nhằm đảm bảo mang lại lời ích cho toàn thể xã hội, đảm cho người cùng kiệt có cơ hội tiếp cận với những hàng hóa thiết yếu với chi phí phù hợp nhất mà vẫn không làm mất đi động cơ phát triển sản xuất của các công ty, doanh nghiệp và các đối tượng khác. Bên cạnh đó, vẫn đảm bảo không bóp méo thị trường mà hình thành một thị trường cạnh tranh công bằng giữa các đối tượng là doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân nhằm mang lại cho xã hội nhiều cơ hội lựa chọn để theo đuổi mục tiêu lợi ích tối ưu.
Bằng việc quy định các mức giá trần và giá sàn, đôi khi Nhà nước cũng cần can thiệp trực tiếp vào thị trường nhằm kịp thời ngăn ngừa những hạn chế, rủi ro mà tự do cạnh tranh mang lại, bởi vì bản thân thị trường cạnh tranh vốn luôn nảy sinh nhiều khuyết tật do con người luôn cố gắng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận cho riêng mình mà đôi khi xem nhẹ lợi ích của toàn xã hội, bất chấp vi phạm những nguyên tắc đạo đức, xã hội, vì thế sự can thiệp của Nhà nước trong trường hợp này là điều cần thiết.
1.7. Phát triển các loại công nghệ mới mà có thể giúp những người lao động có thu nhập thấp đạt năng suất cao hơn:
Bằng việc đầu tư phát triển các viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học nhằm tìm ra các công nghệ mới,chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh, giúp đỡ người nghèo, người lao động có thu nhập thấp đạt năng suất cao, vươn lên thoát nghèo, Nhà nước đã và đang thực hiện vai trò quan trọng của mình trong công tác phấn đấu thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,khoảng cách giữa thành thị và nông thôn,từng bước xóa bỏ bất công bằng xã hội, xây dựng tiền đề, động lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế trong các giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh công tác xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ bất công trong phân phối thu nhập, tiến tới thực hiện chiến lược tổng thể công bằng xã hội, Nhà nước còn chú trọng tới đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, văn hóa,hướng về các vùng miền xa xôi hẻo lánh, các vùng núi với đại đa số là đồng bào dân tộc thiểu số ít người, trình độ dân trí thấp,thông qua các chương trình hành động quốc gia, các mục tiêu thiên niên kỷ.Thành tích mà chúng ta được rất đáng khích lệ, cụ thể: số hộ cùng kiệt giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn khoảng 10% (năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm

5d0s43Hk8KO2q5i
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status