Nghiên cứu thực trạng môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Hà Nội - Những giải pháp về xúc tiến và quản lý - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Nghiên cứu thực trạng môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Hà Nội - Những giải pháp về xúc tiến và quản lý



Từ năm 1987 các chính sách đổi mới kinh tế mới bắt đầu diễn ra một cách mạnh mẽ, trong đó việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhất là từ năm 1988, chúng ta đã bắt đầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng đã có những bước chuyển biến quan trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 1987 - 1995 đạt xấp xỉ 7% một năm (thời kỳ 1991 - 1995 đạt mức tăng GDP trung bình 8.2% một năm). Đạt được kết quả tăng hàng năm GDP khá cao như trên phải kể đến phần đóng góp hết sức có ý nghĩa quan trọng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo đánh giá của các nhà chuyên gia kinh tế, mức tăng GDP năm 1995 là 9.5 % (riêng Hà nội là 11.5%), nhưng nếu không có đầu tư trực tiếp nước ngoài thì mức tăng trưởng chỉ đạt 5.2% một năm, tức là đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra mức tăng GDP là 4.3% (Hà nội là 5.8%). Ước tính năm 1996 (trên phạm vi toàn quốc), nếu không có đầu tư nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng chung chỉ đạt khoảng 5.9% thấp hơn 3.6% so với mức 9.5% như dự kiến sẽ đạt được vào khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khoảng 13% trong tổng GDP năm 1996.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

lượng lao động và nhịp độ gia tăng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài qua các năm được mô tả.
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
2000
Số lao động
200
600
950
1200
1950
2900
3300
3100
2800
1200
So sánh (năm)
90/89
91/90
92/91
93/92
94/93
95/94
96/95
97/96
20/99
Hệ số tăng giảm
3
1.5
1.3
1.6
1.5
1.1
0.9
0.9
0,8
6. Về thu ngân sách (nộp thuế):
Một trong những lợi ích quan trọng của Nhà nước Việt Nam đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là các khoản nộp thuế. Trong khoảng thời gian hơn 10 năm (1989-2000) thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Hà Nội số thuế nộp vào ngân sách đạt 455 triệu USD, cụ thể được phân theo các năm như sau:
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
2000
Số lượng
(triệu USD)
0,5
2,5
4
9
14
26
39
50
88
105
III. ảnh hưởng của FDI
đối với nền kinh tế:
1. Góp phần tăng trưởng GDP:
Suốt vài thập kỷ trước năm 1986, nền kinh tế Việt nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng ở vào tình trạng kém phát triển, mức tăng trưởng kinh tế trong kế hoạch 5 năm 1976 -1980 bình quân mỗi năm là 1.4% và thu nhập quốc dân chỉ đạt mức tăng là 0.4% một năm, định hướng chiến lược phát triển kinh tế theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá nền kinh tế. Tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội cũng chỉ tăng trung bình là 4.6% một năm. Sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nên chi phí vật chất cao và không ngừng tăng lên, năm 1980 chi phí vật chất chiếm 41.9% tổng sản phẩm xã hội, năm 1985 tăng lên 44.1%. Trong khi đó mức tăng dân số trung bình của giai đoạn này là 2.3% để đảm bảo cho đời sống của nhân dân không bị giảm thì nền kinh tế ít nhất cũng phải đạt mức tăng trưởng trung bình 7% một năm (riêng Hà nội 11%).
Trên thực tế thì sản xuất trong nước luôn luôn không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của dân cư, thời kỳ từ 1976 - 1985 chỉ cung cấp được khoảng 80% thu nhập quốc dân sử dụng. Như vậy, toàn bộ tích luỹ (tuy rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài đặc biệt là các nước XHCN.
Bảng tham khảo - Thu nhập quốc dân sử dụng
(Giai đoạn 1976 - 1985)
Đơn vị tính: %
năm
thu nhập với
nguồn nước ngoài trong
thu nhập quốc dân sử dụng
quốc dân sx so
tổng số
trong đó
sử dụng
tích luỹ
bù tiêu dùng
1976
78.5
21.5
15.7
5.4
1977
79.1
20.9
16.4
3.8
1978
82.6
17.4
13.5
2.7
1979
81.2
18.8
11.4
1.1
1980
82.8
17.2
10
4.0
1981
89.3
10.7
7.8
0.5
1982
88.4
11.6
7.3
1.7
1983
92.1
7.9
8.0
-
1984
88.1
11.9
8.9
0.5
1985
89.8
10.2
11.5
-
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Từ năm 1987 các chính sách đổi mới kinh tế mới bắt đầu diễn ra một cách mạnh mẽ, trong đó việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhất là từ năm 1988, chúng ta đã bắt đầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng đã có những bước chuyển biến quan trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 1987 - 1995 đạt xấp xỉ 7% một năm (thời kỳ 1991 - 1995 đạt mức tăng GDP trung bình 8.2% một năm). Đạt được kết quả tăng hàng năm GDP khá cao như trên phải kể đến phần đóng góp hết sức có ý nghĩa quan trọng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo đánh giá của các nhà chuyên gia kinh tế, mức tăng GDP năm 1995 là 9.5 % (riêng Hà nội là 11.5%), nhưng nếu không có đầu tư trực tiếp nước ngoài thì mức tăng trưởng chỉ đạt 5.2% một năm, tức là đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra mức tăng GDP là 4.3% (Hà nội là 5.8%). Ước tính năm 1996 (trên phạm vi toàn quốc), nếu không có đầu tư nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng chung chỉ đạt khoảng 5.9% thấp hơn 3.6% so với mức 9.5% như dự kiến sẽ đạt được vào khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khoảng 13% trong tổng GDP năm 1996. GDP tính theo đầu người ở Hà nội ngày càng được nâng cao:
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
2000
GDP/đầu người
100
120
150
200
250
320
400
500
650
900
Nguồn: Cục Thống kê Hà nội
2. FDI cùng với các nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế:
Tỷ lệ vốn tích luỹ từ trong nước còn ở mức thấp là một trở ngại lớn cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Hơn thế nữa, đầu tư trực tiếp của nước ngoài còn có những ưu thế hơn so với các hình thức huy động vốn khác. Nhưng việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. hay như các khoản viện trợ thường đi kèm với các điều kiện về chính trị can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước.
Thực hiện liên doanh với nước ngoài là một hình thức khả dĩ nhất, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. Bởi vì khi liên doanh với một đối tác nước ngoài thì thứ nhất là đối tác nước ngoài có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh nên hạn chế và ngăn ngừa được rủi ro, thứ hai là trong tình huống xí nghiệp liên doanh giữa đối tác nước ngoài với chúng ta có nguy cơ đe doạ rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có biện pháp cứu giúp như hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trợ giúp tài chính... để ít nhất họ phải thu về được vốn đã bỏ ra. Trong tình huống xấu nhất khi gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài cũng sẽ là người chia sẻ rủi ro với các công ty của nước sở tại.
Đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài vào Việt nam sẽ tạo ra những tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác trong nước cũng như các nguồn ODA, NGO ... Nó tạo ra một hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về Việt nam trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Mặt khác, ngay trong quan hệ đối nội, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hút vốn đầu tư trong nước.
cơ cấu các nguồn vốn đầu tư xã hội
ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP của thành phố hà nội
(Nguồn Sở KHĐT Hà Nội)
Chỉ tiêu
Đơn vị
TH 1996
TH 1997
(13%)
(12,5%)
GDP
Tổng đầu tư xã hội
Tỷ trọng ĐTXH/GDP (%)
I/ Vốn trong nước
% so tổng vốn đầu tư
a. Vốn NS Nhà nước
- NSTƯ đầu tư qua ĐT
- NSTƯ đầu tư qua bộ, ngành
- Vốn sự nghiệp có tính chất XD
- NSĐP được để lại
b. Vốn tín dụng
- Vốn tín dụng Nhà nước
- Vốn vay ngân hàng
c. Vốn ĐT của DNNN
d. Vốn huy động trong dân & DN khác
II/ Vốn nước ngoài
% so tổng vốn đầu tư
- ODA
- FDI
tỷ đồng
17292
10880
62.92
4880
44.85%
1138
223
600
208
107
890
32
858
1680
1172
6000
55.15%
320 (3.15%)
5680 (52%)
20306
11397
56.13
4817
42.27%
1633
223
900
260
250
1020
100
920
1150
1014
6580
57.73%
260 (1.73%
6374 (56%)
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà nội
3.Chuyển giao công nghệ mới:
Khoảng cách về phát triển khoa học công nghệ giữa các nước đang phát triển nói chung và Việt nam nói riêng với các nước công nghiệp phát triển là rất lớn. Trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát từ những nước công nghiệp phát triển, do đó để "đuổi kịp" các nước công nghiệp phát triển, các nướ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status