Nguồn gốc của lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Nguồn gốc của lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: NGUỒN GỐC CỦA LỢI NHUẬN 3
I. CÁC QUAN ĐIỂM TRƯỚC MAC VỀ LỢI NHUẬN 3
1. Quan điểm của trường phái trọng thương: 3
2. Quan điểm của trường phái trọng nông: 3
3. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh: 3
II. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ LÝ LUẬN LỢI NHUẬN CỦA C.MAC: 5
1. Sự tạo ra giá trị thặng dư: 5
2. Lợi nhuận 7
3. Tỷ suất lợi nhuận 9
4. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân 10
III. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ TƯ SẢN HIỆN ĐẠI VỀ LỢI NHUẬN 12
1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận 12
2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận 13
IV CÁC HÌNH THỨC CỦA LỢI NHUẬN 14
1. Lợi nhuận công nghiệp: 14
2. Lợi nhuận thương nghiệp 15
3. Lợi tức cho vay 15
4. Lợi nhuận Ngân hàng 16
5. Địa tô 16
PHẦN II: VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 17
I. Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam 17
1. Lợi nhuận là động lực đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam 17
2. Các nhân tố ảnh hưởn và quyết định đến lợi nhuận 20
3. Các phương pháp tăng lợi nhuận 23
4. Những mặt trái của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam 24
5. Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam nhằm tăng cường những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của lợi nhuận 26
II. VẤN ĐỀ LỢI NHUẬN Ở VIỆT NAM 26
1. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận ở nước ta 26
2. Các giải pháp về vấn đề lợi nhuận nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 30
KẾT LUẬN 32
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

h sản xuất TBCN.
Giả sử trong xã hội có ba ngành: Ngành da, ngành dệt và ngành chế tạo máy móc, với số tư bản bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ thì khác nhau. Tư bản ứng trước trong mỗi ngành ấy là 100 đơn vị (thí dụ là 100 triệu đồng đô la). Tư bản của ngành da gồm 70 đơn vị là tư bản bất biến và 30 đơn vị là tư bản khả biến; tư bản của ngành dệt gồm có 80 đơn vị là tư bản bất biến và 20 đơn vị là tư bản khả biến; và tư bản của ngành chế tạo máy móc gồm có 90 đơn vị là tư bản bất biến và 10 đơn vị là tư bản khả biến. Giả sử tỷ suất giá trị thặng dư trong cả ba ngành đều như nhau: 100%. Như thế thì giá trị thặng dư tạo ra trong ngành da sẽ là 30 đơn vị, trong ngành dệt là 20 và tỏng ngành chế tạo máy móc là 10. Giá trị của hàng hoá trong ngành thứ nhất sẽ là 130, trong ngành thứ hai là 120, trong ngành thứ ba là 110, và trong toàn bộ cả ba ngành là 360 đơn vị.
Nếu hàng hoá bán ra theo giá trị của nó, thì tỷ suất lợi nhuận trong ngành da sẽ là 30% ((30/100).100), trong ngành dệt là 20% ((20/100).100), trong ngành chế tạo máy móc là 10% ((10/100)/100). Phân phối lợi nhuận như thế thì sẽ rất có lợi đối với các nhà tư bản thuộc ngành da, nhưng không có lợi đối với các nhà tư bản thuộc ngành chế tạo máy móc. Khi ấy thì các chủ xí nghiệp ngành chế tạo máy móc sẽ đi tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Và họ sẽ thấy ngành da là nơi có lợi hơn cả. Thế là họ chuyển tư bản ở ngành chế tạo máy móc sang ngành da. Kết quả là số lượng hàng hoá sản xuất ra trong ngành da sẽ tăng lên, sự cạnh tranh tất nhiên sẽ sâu sắc thêm và sẽ bắt buộc các chủ xí nghiệp của ngành này phải giảm giá hàng hoá của họ xuống, điều đó sẽ đi đến chỗ hạ thấp tỷ suất lợi nhuận. Trái lại, trong ngành chế tạo máy móc, số lượng hàng hoá sản xuất ra sẽ ít đi, và sự thay đổi tương quan giữa cung và cầu sẽ giúp cho các chủ xí nghiệp nâng cao được giá hàng cuả họ lên và do đó tỷ suất lợi nhuận cũng tăng lên.
Tình trạng sụt giá trong ngành da và lên giá trong ngành chế tạo máy móc, sẽ tiếp diễn cho đến khi nào tỷ suất lợi nhuận trong cả ba ngành xấp xỉ bằng nhau mới thôi. Điều đó sẽ xảy ra khi mà hàng hoá của cả ba ngành đều bán theo giá 120 đơn vị (130 + 120 + 110)/3).
Lợi nhuận bình quân của mỗi ngành, trong những điều kiện ấy, sẽ là 20 đơn vị. Lợi nhuận bình quân là một lợi nhuận bằng nhau của những số tư bản bằng nhau bỏ vào các ngành sản xuất khác nhau.
Việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và việc biến giá trị thành giá cả sản xuất càng che dấu thêm quan hệ bóc lột, càng che dấu thêm nguồn gốc làm già thực sự của bọn tư bản. thực ra thì sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân có nghĩa là phân phối lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản trong các ngành sản xuất khác nhau. Nhà tư bản thuộc ngành có cấu tạo hữu cơ tư bản cao, chiếm đoạt được một phần giá trị thặng dư do các ngành có cấu tạo hữu cơ tư bản thấp sáng tạo ra. Bởi vậy, công nhân không những bị nhà tư bản thuê mình bóc lột, mà còn bị toàn bộ giai cấp các nhà tư bản bóc lột. Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đều quan tâm đến việc nâng cao mức độ bóc lột công nhân, vì điều đó làm tăng thêm tỷ suất lợi nhuận bình quân. Như Mác đã vạch rõ, tỷ suất lợi nhuận bình quân thay đổi tuỳ theo mức độ bóc lột của toàn bộ tư bản đối với toàn bộ lao động.
iii. quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận:
1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận:
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng: Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí. Trong đó, doanh thu của một hãng là số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hoá hay dịch vụ trong một giai đoạn nhất định, vì dụ như một nặm. Chi phí của hãng là những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hay dịch vụ trong thời kỳ đó.
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào thấp nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi ra không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường.
+ Ngày nay, để thu được nhiều lợi nhuận, nhà tư bản sẽ không đầu tư nhiều vốn để thuê lao động mà đầu tư vào máy móc hiện đại, tự động khi mà lợi nhuận thu được phải tưong xứng với lợi nhuận bình quân xã hội, mặc dù giá trị được tạo ra trong đó có giá trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá trị của hàng hoá. Vì vậy lợi nhuận nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật, tự động hoá là do sự chuyển hoá giá trị thặng dư được tạo ra trong xã hội dưới hình thức giá trị thặng dư siêu ngạch được sau đi bù lại giữa các nhà tư bản.
Việc áp dụng rộng rãi máy móc hiện đại, tự động trong điều kiện ngày nay đã khiến không ít người đặt câu hỏi rằng: "Phải chăng trong các dây chuyền sản xuất tự động đó không còn bóc lột tư bản và chính máy móc đã sáng tạo ra lợi nhuận?".
2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận:
Trước hết, ta cần khảng định rằng, máy móc và hệ thống máy móc dù có tinh vi, hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm lao động của con người. Con người không thể chế tạo được một động cơ vĩnh cửu. Trong dây chuyền sản xuất tự động, giá trị thặng dư được tạo ra không chỉ là sản phẩm của lao động quá khứ mà vẫn cần tới lao động hiện tại. Mác viết rằng: "Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu với tư cách là lao động được nhập vào quá trình sản xuất nữa, mà là chủ yếu với tư cách là một loại lao động trong đó con người ngày càng đứng sang bên cạnh với chức năng giám sát, điều khiển, sáng tạo mà máy móc không làm nổi".
Lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư bản thu được khi áp dụng máy móc hiện đại hơn so với các nhà tư bản khác chẳng qua chỉ là sự phân phối lại giá trị thặng dư sẵn có trên phạm vi toàn xã hội. Do áp dụng máy móc hiện đại nên lao động ở đây có năng suất cao hơn thì giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn. Song trên thị trường giá bán hàng hoá cùng lại vẫn theo giá thị trường nên nhà tư bản có máy móc hiện đại hơn sẽ thu được nhiều lợi nhuận siêu ngạch hơn. Thực tế, trên quy mô thị trường thế giới, các nhà tư bản phát triển sản xuất bằng máy móc hiện đại và đem bán hàng hoá tại các nước kinh tế chậm phát triển đã thu được lợi nhuận lớn khó có thể hình dung được. Lượng lợi nhuận siêu ngạch mà một nhà tư bản thu được là do phần lợi nhuận của các nhà tư bản khác mất đi mà thôi. Nếu mọi cơ sở sản xuất đều trang bị máy móc hiện đại như nhau thì hiện tượng lợi nhuận siêu ngạch sẽ biến mất và người tiêu dùng được lợi vì giá cả hàng hoá được hạ thấp. Nhưng chỉ khi cần một nhà tư bản nào đó áp dụng máy móc hiện đại hơn và thu được lợi nhuận siêu ngạch thì lập tức dẫn đến sự...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status