Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - pdf 19

Download miễn phí Tiểu luận Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG 3
I. Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở việt Nam 3
1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa 3
2. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN 3
II. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta 4
1. Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ 4
2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam 7
III. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: 11
1. Đặc trưng, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
ở nước ta 11
2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế 13
PHẦN II : PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA 16
I. Phương hướng chung 16
II. Phương hướng và giải pháp cụ thể đối với từng thành phần kinh tế 16
KẾT LUẬN 21
 
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

inh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng định, ở nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau:
kinh tế Nhà nước
kinh tế hợp tác
kinh tế tư bản Nhà nước
kinh tế cá thể tiểu chủ
kinh tế tư bản tư nhân
Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế nói trên ở nước ta là tất yếu. Tính tất yếu đó được quy định bởi các điểm sau đây:
Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì một đòi hỏi khách quan là phải từng bước xây dựng cở sở kinh tế - xã hội của chế độ mới - chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, với hình thức sở hữu Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sở hữu tập thể. Kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và trong nội bộ từng vùng, do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nước ta tất yếu còn kinh tế tư bản tư nhân , kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp, dịch vụ và kinh tế tự nhiên.
Để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa , các thành phần kinh tế phải được cải tiến. Không htể “xoá bỏ” hay ‘chuyển đổi”các thành phần kinh tế một cách chủ quan duy ý chí, mà phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tính chất của từng ngành nghề mà từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Ph.Ăngghen viết : “bất cứ một sự cải tiến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với quan hệ sản xuất cũ nữa.
Việc cải tiến các thành phần kinh tế tư nhân phải xuất phát từ yêu cầu và trình độ xã hội hoá sản xuất, tuỳ từng trường hợp vào khả năng tổ chức và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì khi chính quyền nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thì việc xoá bỏ hình thức sở hữu này và thay thế bằng hình thức sở hữu khác không phải là khó, mà khó khăn phức tạp là ở chỗ, phải làm cho tư liệu sản xuất chủ yếu sau khi đã về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ được sử dụng tốt hơn, có hiệu quả hơn, làm cho quá trình sản xuất xã hội vẫn diễn ra bình thường và gắn liền với việc xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất , bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển có hiệu quả.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan nói rên, kinh tế tư bản chủ nghĩa được cải biến thành bộ phận kinh tế Nhà nước ; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước ; còn kinh tế của những người sản xuất hàng hoá nhỏ tiếp tục tồn tại dưới hình thức kinh tế cá thể hay chuyển thành kinh tế hợp tác.
Trước đây về mặt lý luận đã khẳng định rằng, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là tất yếu khách quan, là đặc trưng kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song trên thực tế, chúng ta lại chủ trương sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần bằng “làn sóng” quốc doanh hoá, tập thể hoá , tạo dựng nên bức tường ngăn cách giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể. Điều này trái với quy luật khách quan, trái với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin ; nó đã dẫn đến hậu quả tiêu cực : các tiềm năng kinh tế của đất nước không được khai thác, lực lượng sản xuất xá hội bị lãng phí một cách nghiêm trọng, sự phát triển kinh tế hàng hoá bị kìm hãm, do đó đời sống của nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn.
Đổi mới kinh tế không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều thành phần kinh tế, mà còn phải thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại :
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là đặc trưng, là đặc điểm bản chất mang tính quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải chỉ là sự thừa nhận đó mà mấu chốt là phải thực hiện chính sách nhiều thành phần kinh tế trong đời sống kinh tế hiện thực, coi đó là nhiệm vụ có tính chất chiến lược lâu dài.
2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cuộc đấu tranh chống xâm lược, đất nước đã thống nhất. Vào thời điểm đó nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhưng hết sức nhỏ bé và còn tồn tại nhiều yếu điểm, hạn chế cần khắc phục. cụ thể :
Một số thành tựu đạt được :
Khi bước vào thời kỳ quá độ, nước ta cơ bản đã xây dựng được một nền kinh tế quốc doanh có năng lực đáng kể và giữ vai trò nòng cốt, chủ chốt trong nền kinh tế. Trước thời kỳ quá độ và cả trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, nghĩa là chỉ tập chung phát triển những thành phần kinh tế XHCN, ra sức quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân và các thành phần kinh tế phi XHCN. Do vậy, Đảng và nhà nước tập chung phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và đã đạt được những thành công nhất định. Đến năm 1975, nước ta có hệ thống nông trường quốc doanh với số lượng lớn, thu hút hàng trăm nghìn công nhân và hơn 3000 máy kéo. Các ngành trong kinh tế quốc doanh như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải … đều được chú trọng phát triển. Nhiều nghành công nghiệp như công nghiệp điện đã có những đóng góp đáng kể tạo ra điện năng phục vụ cuộc sống và sản xuất. Nhờ đó cuộc sống của người dân từng bước được nâng cao.
Nhờ vào phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế xã hội, chúng ta cũng đã xây dựng được một cở sở vật chất kỹ thuật chuẩn bị cho thời kỳ sau. ở miền Bắc, đến năm 1975 giá trị tài sản cố định của các nghành sản xuất vật chất đã gấp 5, 1 lần giá trị tài sản cố định của các nghành sản xuất vật chất năm 1960. Trong đó, công nghiệp gấp 4, 8 lần, xây dựng gấp 16 lần, nông lâm nghiệp gấp 7, 2 lần. Nhờ đó nền kinh tế đã có những bước tăng trưởng nhất định.
Tổng sản phẩm xã hội năm 1975 gấp trên 2, 3 lần năm 1960, thu nhập quốc dân gấp 1, 9 lần, bình quân mỗi năm tăng 4, 3%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp gấp 3, 4 lần, bình quân mỗi năm tăng 8, 4%. Các ngành khác cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá.
Đó là những thành tựu hết sức quan trọng đối với nước ta. Nó làm cho nhân dân ta thên tin tưởng vào chế độ mới.
Những mặt hạn chế :
Tuy chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng chúng ta vẫn còn gặp phải rất nhiều những mặt còn hạn chế, những nhược điểm trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Trước hết, ở nước ta trong thời kỳ quá độ nền kinh tế hàng hoá còn kém phát tri
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status