Tư tưởng của C.Mác-Angghen về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS - pdf 19

Download miễn phí Tiểu luận Tư tưởng của C.Mác-Angghen về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS



C.Mác tính rất sát không những đến sự bất bình đẳng không thể trách được giữa người ta với nhau, mà còn tính cả đến điểm sau này là chỉ riêng bạn thân việc biến tư liệu sản xuất thành sở hữu chung của toàn thể xã hội, ( CNXH theo nghĩa thông thường) thì cũng không xoá bỏ được những khuyết điểm của sự phân phối và sự bất bình đẳng của pháp quyền tư sản, pháp quyền này vẫn tiếp tục thống trị, vì sản phẩm được phân phối theo lao động. Mác nói “ Nhưng những khuyết điểm ấy không thể nào tránh khỏi được trong giai đoạn đầu của XHCS , là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản mà ra, sau một thời kỳ sinh để lâu dài và đau lớn. Quyền lợi không bao giờ có thể cao hơn trình độ văn minh của xã hội thích ứng với tình trạng của kinh tế ấy”
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

vì vậy, trong giai đoạn này còn có những thiếu sót không thể tránh khỏi. Về mặt kinh tế, đó là sự thiếu sót trong khâu phân phối. Trong giai đoạn này việc phân phối được thực hiện theo nguyên tắc phân phối sản phẩm tiêu dùng theo số lượng và chất lượng lao động. Sự tiến bộ của nguyên tắc này là ở chỗ nó không thừa nhận một sự phân biệt giai cấp nào cả, bất cứ người lao động nào cũng như nhau. Một cống hiến của mỗi người được đo bằng một thước đo như nhau, tức là bằng hiệu quả lao động . Sự thiếu sót không thể tránh khỏi của nguyên tắc này là ở chỗ nó không thừa nhaahj sự không ngang nhau về thể chất, về tinh thần, năng khiếu, tóm lại về năng lực lao động. Do đó, “quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối với một lao động không ngang nhau”. Về việc phân phối những vật phẩm tiêu dung vẫn phải tuân theo nguyên tắc trong việc trao đổi hàng hoá- vật ngang giá: một số lượng lao động dưới một hình thức này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới một hình thức khác. Vì vậy, ở đây về nguyên tắc cái quyền ngang nhau cũng là cái quyền tư sản, tuỳ rằng ở đây nguyên lý và thực tiễn không còn mâu thuẫn với nhau nữa.
Chỉ đến một giai đoạn cao hơn, tức là dưới chủ nghĩa cộng sản thực sự, khi đã tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần; “khi mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch con người của họ không còn nữa và cùng với nó, sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay cũng sẽ không còn nữa, khi mà lao động sẽ trỏ thành không những là phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là nhu cầu bậc nhất của sự sống. Khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, năng suất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải của xã hội đều tuôn ra dồi dào-chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Điều phân biệt này hết sức quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn.
C.Mác-Ăngghen:36/19
2. Quan điểm của V.I. Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH:
V.I. Lênin đã kế thừa học thuyết C.Mác và vận dụng sáng tạo học thuyết đó vào điều kiện cách mạng của nước Nga, một nước có trình độ phát triển kinh tế trung bình, trong thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn độc quyền, long đoạn.
Lý luận về thời kỳ quá độ của V.I. Lênin bao gồm một số luận điểm cơ bản: Xuất phát từ so sánh lực lượng về mọi mặt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, V.I. Lênin đã nêu ra luận điểm đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp tư sản dưới hình thức mới, nội dung mới và trong điều kiện mới. Ông đã nêu ra luận điểm nội tiếng: “ CNCS = Chính quyền Xô viết + Điện khí hoá toàn quốc”, và nhấn mạnh nhiệm vụ của công nghiệp hoá cũng như vai trò của việc tăng năng suất lao động để chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Phát triển quan điểm về sự “rút ngắn” trong phát triển kinh tế xã hội của C.Mác-Angghen; V.I. Lênin đã nêu ra: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa công sản, không phai trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản”.
V.I. Lênin: 295/41
Như vậy, đối với nước kinh tế kém phát triển khi dành được chính quyền thì phải quá độ lên chủ nghĩa cộng sản mà là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản). Thời kỳ quá độ này cũng là một yếu tố khách quan:
- Trước hết, do bản chất chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này khác về bản chất với mọi cuộc cách mạng xã hội trước đây, không phải chỉ là thay thế hình thức sở hữu tư nhân này bằng hình thức tư nhân khác, và không phải thay nhà nước bóc lột này bằng nhà nước bóc lột khác, mà xoá bỏ tận gốc sở hữu tư nhân và xoá bỏ nhà nước và giai cấp.
- Hai là, từ một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội phải tiến hành cải biến cách mạng một cách toàn diện, sâu sắc: từ kinh tế đến chính trị-xã hội; từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng. Nghĩa là đối với những nước phải trải qua nhiều bước quá độ để tạo tiền đề cho những bước tiếp theo. Nhất là phải bắc một cái cầu trung gian, đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước, chỉ có như thế đưa được một nước tuyệt đại là tiểu nông đi lên chủ nghĩa xã hội một cách chắc chắn.
V.I. Lênin khẳng định hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa), tất yếu phải là hình thai kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa trên cả 3 yếu tố: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến trúc thượng tầng. Mặt khác ông cũng chỉ ra rằng “chủ nghĩ xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt tới những hình thức hoàn chỉnh của nó, điều đó chúng ta không biết, không thể nói lên được…” bởi chúng ta còn chưa đủ tài liệu để noi về chủ nghĩa xã hội, “những viên cạch để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chưa làm xong. Chúng ta cần hết sức then trọng và chính xác. Điều đó, và chỉ điều đó mới sẽ lam cho cương lĩnh của chúng ta có sức hấp dẫn” nếu ngược lại “cương lĩnh đó của chúng ta chẳng qua gì là ảo tưởng”.
V.I. Lênin:SĐD, 83/36
Lời giải thích này của V.I. Lênin rất phu hợp của luận điểm của Ph.Angghen khi phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa chủ quan, ảo tưởng duy ý chí là nếu chưa có những điều kiện, những tài liệu đầy đủ mà đã đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể; thì càng cụ thể bao nhiêu càng ảo tương và dễ sai lầm bấy nhiêu.
V.I. Lênin:SĐD, 83/36
Theo V.I. Lênin trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế:(1) kinh tế nông dân gia trưởng, (2) kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, (3) kinh tế tư bản tư nhân, (4) kinh tế tư bản nhà nước, và (5) kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tính đa thành phần của nền kinh tế vưà là biểu hiện, vừa là hệ quả của nền sản xuất xã hội hoá ở trình độ thấp.
Do nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, nên về mặt xã hội sẽ còn tồn tại nhiều giai cấp. Do đó, về chính trị tất yếu sẽ là chuyên chính vô sản, vì nếu không có chuyên chính vô sản thì mọi thành quả cách mạng không thể giữ nổi. Chuyên chính vô sản là nền chuyên chính của giai cấp vô sản để bảo vệ quyền lợi của giai cấp vô sản và quần chúng lao động. Hay noi cách khác chuyên chính vô sản là quyền làm chủ của nhân dân lao động, mà nòng cốt là liên minh công nông thực hiện bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.
Theo V.I. Lênin, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình chuyên cính vô sản có bốn nhiệm vụ như: (1) Đập tàn sự phản kháng của mọi kẻ thù; (2) cải tạo xây dựng xã hội mới; (3) xây dựng và củng cố quốc phòng; và (4) ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của các nước và các dân tộc. Bốn nhiệm vụ trên được thực hiện thông qua hai chức năng s...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status