Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN - pdf 20

Download miễn phí Đề tài Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam để xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN



Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của nó. Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, của các hình thức giá trị hàng hoá.
Hình thái đầu tiên của giá trị là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, khi số hàng hoá trao đổi còn rất ít và diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên. ở hình thái này, hàng hoá thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ 2, còn hàng hoá thứ 2 đóng vai trò là vật ngang giá.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

lượng giá trị của hàng hoá? Thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết của 1 hàng hoá không phải là 1 đại lượng cố định mà nó thay đổi, vì nó phụ thuộc vào 2 yếu tố là: năng suất lao động và cường độ lao động.
Năng suất lao động: là hiệu quả có ích của lao động sản xuất vật chất của con người, nó được đo bằng số lượng sản phẩm làm ra trong 1 đơn vị thời gian hay số lượng thời gian hao phí để làm ra 1 đơn vị sản phẩm.
W = ; W =
Với:
Q : là số lượng sản phẩm
T : đơn vị thời gian
t : lượng thời gian hao phí cho 1 đơn vị sản phẩm
q : sản phẩm
Trong quá trình lao động sản xuất con người luôn có xu hướng nâng cao hiệu quả sản xuất của mình tức là tăng năng suất lao động, tăng năng suất lao động được thể hiện ở chỗ: tăng số lượng sản phẩm, làm ra trong 1 đơn vị thời gian hay giảm thời gian lao động hao phí để làm ra 1 đơn vị sản phẩm so với trước. Như vậy thực chất của tăng năng suất lao động là tiết kiệm thời gian lao động. Giá trị hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn năng suất lao động lại phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao động, mức độ trang bị kỹ thuật cho người lao động và phụ thuộc vào phương pháp tổ chức lao động, cũng như các điều kiện tự nhiên.
Cần phân biệt giữa tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động. Tăng cường độ lao động giống như kéo dài thời gian lao động, nó làm cho số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong 1 đơn vị thời gian tăng lên nhưng hao phí sức lao động cũng tăng lên cùng tỉ lệ và do đó giá trị của 1 hàng hoá không thay đổi.
Ngoài 2 yếu tố là năng suất lao động và cường độ lao động ở trên thì lượng giá trị của hàng hoá còn chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố là lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Tham gia vào sản xuất hàng hoá với nhiều loại lao động khác nhau nhưng người ta khái quát thành 2 trình độ là lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động sản xuất vật chất của con người, không cần đào tạo chuyên môn, mà ai có sức lao động cũng có thể làm được. Còn lao động phức tạp là lao động phải có chuyên môn, có đào tạo mới làm được.
Trong cùng một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hoá thì mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình của xã hội.
a.1.3. Tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Hàng hoá có 2 thuộc tính trên bởi vì lao động sản xuất hàng hoá có tính chất 2 mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể: là lao động sản xuất vật chất của con người, nó được tồn tại dưới hình thức nghề nghiệp chuyên môn nhất định, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của vật phẩm, các lao động cụ thể khác nhau về chất, mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp riêng, đối tượng và kết quả riêng.
Lao động cụ thể là 1 phạm trù vĩnh viễn, nó gắn liền với lao động sản xuất vật chất của con người.
Lao động trừu tượng: là lao động hao phí của người sản xuất hàng hoá nói chung về sức thần kinh, cơ bắp, thể lực và trí lực, nếu như gạt bỏ tính muôn màu muôn vẻ của các hình thức cụ thể của lao động. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá nên nó là 1 phạm trù lịch sử.
Tuy nhiên, cần chú ý là không phải có 2 thứ lao động kết tinh trong hàng hoá mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá có tính 2 mặt mà thôi.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn thì tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn.
a.2. Tiền tệ.
a.2.1. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của nó. Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, của các hình thức giá trị hàng hoá.
Hình thái đầu tiên của giá trị là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, khi số hàng hoá trao đổi còn rất ít và diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên. ở hình thái này, hàng hoá thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ 2, còn hàng hoá thứ 2 đóng vai trò là vật ngang giá.
Khi mà số lượng hàng hoá trao đổi trên thị trường có nhiều hơn thì một hàng hoá có thể trao đổi với nhiều hàng hoá khác. Đó là hình thái giá trị mở rộng hay phát triển.
Khi sản xuất hàng hoà phát triển hơn nữa, trao đổi hàng hoá trở nên thường xuyên rộng rãi hơn, thì có 1 hàng hoá tách ra làm vật ngang giá chung. Đó chính là hình thái chung của giá trị. Vật ngang giá chung có thể trao đổi trực tiếp với một hàng hoá bất kỳ. Vật ngang giá trở thành môi giới, thành phương tiện trao đổi lúc đầu ở mỗi địa phương, hay mỗi dân tộc thường có những sản phẩm khác nhau làm vật ngang giá chung, nhưng khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, thị trường được mở rộng thì vai trò vật ngang giá chung dần dần được cố định ở vàng và bạc thì hình thái tiền tệ của giá trị ra đời.
Khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá phân làm 2 cực đối lập; một phía là các hàng hoá thông thường, một phía là hàng hoá đóng vai trò là tiền tệ làm vật ngang giá chung thống nhất.
Như vậy, tiền tệ là đại biểu cho hao phí lao động xã hội, biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, là 1 hàng hoá đặc biệt mà ngày nay nó được sử dụng làm 1 công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước ở trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Tiền tệ là 1 phạm trù lịch sử.
a.2.2. Chức năng của tiền tệ - Quy luật lưu thông tiền tệ - Lạm phát.
* Chức năng của tiền tệ:
- Chức năng thước đo giá trị: giá trị của mỗi hàng hoá được thể hiện bằng 1 số lượng tiền tệ nhất định. Tiền tệ có thể làm thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là 1 hàng hoá, cũng có giá trị như các hàng hoá khác.
Giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng tiền là giá cả. Như vậy, giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả hàng hoá thay đổi lên xuống xoay quanh giá trị, nhưng tổng giá cả thì luôn bằng tổng số giá trị hàng hoá.
- Phương tiện lưu thông: đây là chức năng thứ 2 của tiền tệ, với chức năng này thì tiền tệ làm môi giới trong trao đổi hàng hoá và đó phải là tiền mặt. Khi tiền tệ làm phương tiện lưu thông thì việc trao đổi hàng hoá vận động theo công thức H - T - H.
- Phương tiện cất trữ: tiền rút ra khỏi lưu thông thì làm chức năng cất trữ và khi lưu thông cần nó lại đưa vào lưu thông, nhưng làm chức năng này phải là tiền vàng hay các kim loại quý hay đá quý.
- Chức năng phương tiện thanh toán: sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá phát triển làm xuất hiện hiện tượng mua bán chịu do đó tiền còn làm chức năng thanh toán. Với chức năng này phát triển sẽ làm tăng thêm sự phụ thuộc giữa những người sản xuất hàng hoá.
- Chức năng tiền tệ thế giới: việc buôn bán giữa các nước xuất hiệ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status