Chân dung nước Mỹ - pdf 20

Download miễn phí dáng nước Mỹ



GIÁO DỤC TỰ DO HAY HưỚNG NGHIỆP?
Cũng như các trường phổ thông trung học, các trường cao đẳng Mỹ đôi khi bị chỉ trích
vì xem nhẹ các khóa học bắt buộc và đưa ra quá nhiều các khóa học tự chọn. Vào giữa
những năm 1980, Hiệp hội các trường cao đẳng Mỹ đã ra một thông báo kêu gọi việc
dạy một khung kiến thức cơ bản cho tất cả các sinh viên cao đẳng. Một bản báo cáo
tương tự, “Tham gia vào việc học”, do Viện Giáo dục Quốc gia đưa ra, đã kết luận rằng
chương trình giáo giục cao đẳng đã trở nên “quá liên quan đến việc làm”. Bản báo cáo
cũng cảnh báo giáo dục cao đẳng có thể sẽ không còn giúp cho sinh viên phát triển
“những giá trị và kiến thức chung”, những nhân tố gắn kết người Mỹ lại với nhau.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

n
quan. Ví dụ, một trƣờng khoa học tổng hợp
sẽ có các khóa học về văn học, ngôn ngữ,
lịch sử, triết học và các môn khoa học trong
khi một trƣờng cao đẳng kinh doanh có các
khóa học về kế toán, đầu tƣ và tiếp thị.
Nhiều trƣờng cao đẳng hoạt động độc lập và
cấp bằng cử nhân cho những sinh viên hoàn
thành chƣơng trình học, thƣờng kéo dài bốn
năm. Nhƣng trƣờng cao đẳng cũng có thể là
một bộ phận của trƣờng đại học. Một
trƣờng đại học lớn thƣờng bao gồm vài
trƣờng cao đẳng, các chƣơng trình đào tạo
đại học trên nhiều lĩnh vực, một hay hơn
một trƣờng chuyên nghiệp (ví dụ nhƣ
trƣờng luật hay trƣờng y) và một hay hơn
một cơ sở nghiên cứu. (Ngƣời Mỹ thƣờng
dùng từ “cao đẳng” để gọi tắt cho cả trƣờng
cao đẳng và đại học).
Mỗi bang đều có trƣờng đại học của riêng
bang đó và ở một số bang còn có mạng lƣới
các trƣờng cao đẳng và đại học rộng lớn. Ví
dụ mạng lƣới đại học ở bang New York có
hơn 60 trƣờng. Một số thành phố cũng có
các trƣờng đại học công lập của mình.
Trong nhiều lĩnh vực, các trƣờng cao đẳng
cộng đồng là chiếc cầu nối giữa trƣờng
trung học phổ thông với trƣờng cao đẳng hệ
bốn năm đối với một số sinh viên. Ở các
trƣờng cao đẳng đại cƣơng và các trƣờng
đai học cộng đồng, sinh viên thường có thể
hoàn thành khóa học trong vòng hai năm
đầu với giá rẻ và vẫn được ở gần nhà.
Không nhƣ các trƣờng cấp I và II công lập,
các trƣờng cao đẳng và đại học công lập
thƣờng thu học phí. Tuy nhiên, học phí
thƣờng thấp hơn rất nhiều so với các trƣờng
tƣ, vốn không nhận đƣợc mức hỗ trợ từ bên
ngoài nhƣ các trƣờng công. Nhiều sinh viên
vào học ở trƣờng cao đẳng tƣ lập cũng nhƣ
công lập để có đƣợc các khoản vay liên
bang mà họ phải hoàn trả sau khi tốt nghiệp.
Khoảng 25% trƣờng cao đẳng và đại học là
của các nhóm tôn giáo. Các trƣờng này mở
cửa cho các sinh viên thuộc bất kỳ tôn giáo
nào. Nhƣng cũng có các trƣờng tƣ không
dính dáng gì đến tôn giáo. Dù là công lập
hay tƣ lập, các trƣờng cao đẳng dựa vào 3
Mỹ không
có hệ
thống
trường học
quốc gia và
các trường
học cũng
không nằm
trong sự
điều hành
của Chính
phủ Liên
bang, trừ
các học
viện quân
sự.
(Ảnh trang
trước) Học sinh
lớp năm học sử
dụng máy tính
tại trường Tiểu
học Oak Forest
(rừng sồi) ở
Houston, Texas
53
Hệ thống giáo dục đa dạng
nguồn thu nhập chính: thu học phí, tài trợ
(quà tặng từ các nhà hảo tâm) và hỗ trợ từ
phía chính phủ.
Không có sự khác biệt rõ ràng về chất lƣợng
đào tạo giữa các trường tư và trường công
lập. Ví dụ, các trƣờng công lập ở bang Cali-
fornia và Virginia thƣờng đƣợc xếp hạng
tƣơng đƣơng với Liên đoàn Ivy, một hiệp
hội gồm tám trƣờng tƣ có uy tín ở miền
Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng điều này không
có nghĩa tất cả các trƣờng đều nhƣ nhau.
Một sinh viên tốt nghiệp từ một trƣờng cao
đẳng danh giá có thể có thuận lợi hơn khi
tìm việc. Do đó, cuộc chạy đua vào các
trƣờng cao đẳng có tiếng rất căng thẳng.
Một sinh viên cao đẳng học các khóa học
liên quan đến chuyên ngành “chính” của
anh ta (ngành học mà anh ta muốn chuyên
sâu) cùng với các khóa học “tự chọn” (các
khóa học không bắt buộc và sinh viên có thể
tự do chọn lựa). Ƣớc tính hiện các trƣờng
cao đẳng và đại học Mỹ đào tạo hơn 1000
ngành học.
GIÁO DỤC, VẤN ĐỀ CỦA TỪNG BANG
Từ Hawaii đến Delaware, từ Alaska đến
Louisiana, 50 bang, mỗi bang đều có luật
giáo dục riêng của mình. Luật giữa các bang
có thể giống hay khác nhau. Ví dụ:
Tất cả các bang đều buộc trẻ em phải đến
trƣờng nhƣng lại khác nhau trong quy định
độ tuổi đến trường. Hầu hết các bang đều
buộc trẻ em đến trƣờng cho đến năm 16
tuổi, trong khi quy định của một số bang là
18 tuổi. Do đó, trẻ em ở Mỹ đều đi học ít
nhất 11 năm không phân biệt giới tính, sắc
tộc, tôn giáo, khả năng, điều kiện thể chất,
khả năng tiếng Anh, tƣ cách công dân hay
nhập cƣ. (Mặc dù một số thành viên Quốc
hội chủ trƣơng cho phép các bang từ chối
tiếp nhận trẻ em từ các gia đình nhập cƣ bất
hợp pháp nhƣng dự luật này vẫn chƣa đƣợc
thông qua).
Một số bang đóng vai trò chủ yếu trong việc
lựa chọn thiết bị học tập cho sinh viên. Ví
dụ, các ủy ban trong bang có thể quyết định
mua loại sách nào bằng ngân sách của bang.
Ở một số bang khác, việc này do chính các
trƣờng quyết định.
Mặc dù ở Mỹ không có chƣơng trình học
mang tính quốc gia nhƣng một số môn học
được dạy ở hầu hết các trường cấp I và cấp
II. Ví dụ, đa số các trƣờng tiểu học đều dạy
môn toán, môn ngôn ngữ học (gồm có đọc,
ngữ pháp, viết và văn học), viết văn, khoa
học, các ngành xã hội (gồm có lịch sử, địa
lý, giáo dục công dân, và kinh tế) và giáo
dục thể chất. Ở nhiều trƣờng, trẻ em đƣợc
học vi tính, một phần quan trọng của các
khóa học.
Ngoài các khóa học bắt buộc nhƣ một năm
học Lịch sử Mỹ, hai năm học văn học…,
các trƣờng cấp II, cũng nhƣ các trƣờng cao
đẳng thường có các khóa học tự chọn như
nghệ thuật biểu diễn, học lái xe, nấu ăn và
kỹ thuật (sử dụng đồ nghề, làm mộc và sửa
chữa máy móc).
THAY ĐỔI CHUẨN MỰC
Cho đến những năm 1950, các khóa học bắt
buộc xuất hiện rất nhiều trong khi chỉ có vài
khóa học tự chọn. Khuynh hƣớng của
những năm 1960 và 1970 là cho học sinh có
nhiều sự lựa chọn hơn. Tuy nhiên vào
những năm 1980, các bậc phụ huynh và các
nhà giáo dục đã xem xét lại vấn đề này vì
họ e sợ rằng có thể có một mối liên hệ
giữa sự gia tăng các khóa học tự chọn và sự
suy giảm chậm nhƣng đều đều của điểm số
trung bình của sinh viên trong các bài kiểm
tra toán, đọc và khoa học đã đƣợc tiêu
chuẩn hóa.
Cũng vào thời điểm này, các nhà quản lý ở
các trƣờng cao đẳng và các nhà điều hành
kinh doanh bắt đầu phàn nàn rằng các sinh
viên tốt nghiệp từ các trƣờng phổ thông
trung học cần học thêm các khóa học
phụ đạo (gọi là ba R) về đọc, viết và số học.
Theo điều tra năm 1980, khoảng 99% số
ngƣời trƣởng thành đƣợc hỏi biết đọc và
biết viết. Nhƣng các nhà phê bình lại cho
rằng khoảng 13% số ngƣời trong độ tuổi 17
mù tịt về các kỹ năng. Ví dụ, họ không thể
làm đƣợc những công việc đơn giản nhƣ
hiểu đƣợc các chỉ dẫn và khai vào đơn xin
việc.
Các chuyên gia săm soi từng nguyên nhân
có thể dẫn đến sự sụt giảm trong điểm số
trung bình vào đầu những năm 1980. Một
trong những nguyên nhân là truyền hình vì
những chƣơng trình hạng hai mà nó trình
54
Hệ thống giáo dục đa dạng
(Từ trên xuống dưới) Cuộc họp của
ban phụ trách các trường địa
phương; Sinh viên trong lớp học tại
trường Đại học Tổng hợp bang Io-
wa ở Ames; Tổng thống Clinton và
Đệ nhất Phu nhân Hillary Rodham
Clinton thăm một trường tiểu học ở
Thủ đô Washington.
55
Hệ thống giáo dục đa dạng
(Từ trên xuống dưới) Một lớp học nhạc tạ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status