Nghiên cứu kết quả phẫu thuật nội soi u buồng trứng tại Bệnh viên Đại Học Y Hà Nội - pdf 21

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
ĐẶT VẤN ĐỀ

Trên thế giới PTNS hiện đại thực sự phát triển mạnh từ năm 1987 sau ca cắt túi mật thành công qua nội soi đầu tiên của Philippe Mouret tại Lyon-Pháp. Cho đến nay tính ưu việt của PTNS như mất ít máu, ít gây sang chấn, an toàn, nhanh bình phục, tính thẩm mỹ cao…đã được khẳng định [2], [23].
Việc áp dụng PTNS trong phụ khoa đã mang lại một kết quả vô cùng khả quan. Mức độ phẫu thuật ngày càng được nâng cao như phẫu thuật u nang buồng trứng, các can thiệp tại vòi tử cung trong điều trị vô sinh, phẫu thuật chửa ngoài tử cung, phẫu thuật cắt tử cung và đến nay PTNS đã áp dụng trong điều trị một số ung thư phụ khoa [23], [29], [50], [54], [60].
Một trong những PTNS hay được áp dụng nhất trong phụ khoa là phẫu thuật u buồng trứng lành tính bao gồm cắt buồng trứng hay bóc u.
Tại Việt Nam, PTNS u buồng trứng lần đầu tiên được áp dụng tại Bệnh viện Từ Dũ vào năm 1993 và tại Bệnh viện Phụ Sản trung ương vào năm 1996. Gần đây rất nhiều cơ sở phẫu thuật đã áp dụng PTNS trong điều trị u buồng trứng lành tính. Đặc biệt tại các cơ sở phẫu thuật lớn, điều trị u buồng trứng lành tính bằng PTNS đã phần lớn thay thế phẫu thuật mở bụng cổ điển. Cho tới nay PTNS trong điều trị u nang buồng trứng lành tính đã được áp dụng rộng rãi đến cơ sở y tế cấp huyện ở nhiều huyện thị khác nhau trên cả nước.
Ở nước ta đã có một số nghiên cứu về kỹ thuật, chỉ định và kết quả của PTNS u buồng trứng. Kết quả cho thấy còn nhiều vấn đề tồn tại trong việc áp dụng PTNS trong điều trị u buồng trứng lành tính như tai biến chảy máu, tổn thương hệ tiết niệu và tiêu hóa, tai biến do bơm hơi, bỏ sót ung thư gây lan tràn vào ổ bụng nếu không được chẩn đoán trước và trong mổ. Ngoài ra còn các tai biến do gây mê, các hạn chế của gây mê trong PTNS khi có bệnh kết hợp, các trường hợp u dính nhiều, u lớn phải chuyển sang mổ mở. Hơn nữa chỉ định của phẫu thuật nội soi u buồng trứng đang còn bị hạn chế về kích thước u, tính chất lành hay ác tính của khối u, ổ bụng có VMC, khối u dính, đặc biệt tại những cơ sở mới triển khai phẫu thuật nơi mà trình độ và kinh nghiệm của phẫu thuật viên cũng như gây mê còn chưa tốt [13], [14], [16], [23][38], [50].
Tuy nhiên theo thời gian việc áp dụng PTNS nói chung và PTNS u buồng trứng nói riêng ngày càng nhiều, kỹ thuật PTNS ngày càng được hoàn thiện, chỉ định cũng được mở rộng hơn [10], [11], [13], [14], [16], [43].
Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội là bệnh viện mới được đi vào hoạt động từ 08/ 2008, với đầy đủ trang thiết bị hiện đại, đội ngũ y bác sĩ giàu kinh nghiêm có chuyên môn cao. Tại đây PTNS u buồng trứng cũng đã được triển khai sâu rộng và trở thành một phẫu thuật thường quy.
Ở thời điểm hiện tại cũng chưa có nghiên cứu nào tổng kết về công tác điều trị phẫu thuật nội soi u buồng trứng tại Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội.
Từ những thực tế trên, việc nghiên cứu đánh giá tình hình PTNS u buồng trứng tại Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội trong thời điểm hiện nay là cần thiết. Vì vậy chúng tui tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu kết quả phẫu thuật nội soi u buồng trứng tại Bệnh viên Đại Học Y Hà Nội” nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng u buồng trứng lành tính được phẫu thuật nội soi.
2. Nhận xét kết quả phẫu thuật nội soi u buồng trứng lành tính tại Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội năm 2011.


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Sơ lược lịch sử phát triển, ứng dụng, triển vọng của PTNS trên thế giới
Nội soi ổ bụng với mục đích chẩn đoán đã phát triển từ gần một thế kỷ nay và mang lại những lợi ích đáng kể cho y học. Năm 1987 Philippe Mouret (Lyon-Pháp) đã thực hiện thành công ca cắt túi mật qua nội soi đầu tiên, mở ra một thời kỳ mới cho ngành phẫu thuật nói chung và ngành PTNS nói riêng. PTNS nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi và phát triển mạnh tại các nước Châu Âu, Châu Mỹ và trên toàn thế giới [2], [23], [50].
1.7.2.3. Cắt buồng trứng hay cắt phần phụ:
* Áp dụng: u chiếm hết cả buồng trứng hay đối với phụ nữ đã mạn kinh.
* Kỹ thuật: đầu tiên dùng dao điện 2 cực đốt cầm máu rồi cắt dây chằng thắt lưng - buồng trứng, hay khâu buộc hay bằng clip. Tiếp đó đốt và cắt dây chằng tử cung - buồng trứng rồi đến mạc treo vòi tử cung. Nếu bệnh nhân không còn nguyện vọng đẻ thì cắt cả vòi tử cung. Lấy u bằng túi qua thành bụng hay qua túi cùng sau âm đạo.
* Đối với u lạc nội mạc tử cung có tính chất vỏ mỏng, dễ vỡ, khó bóc tách thì chọc hút, rửa kỹ rồi dùng dao điện lưỡng cực hay laser CO2 đốt kỹ tất cả các thành của vỏ u.



Hình 1.8. Đốt các nốt lạc nội mạc tử cung trên vỏ u lạc nội mạc tử cung [25] .

Hình 1.9. U buồng trứng sau phúc mạc: mở phúc mạc bóc u [25].
1.7.3. Các bước tiến hành PTNS u buồng trứng:
1.7.3.1. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ:
- Gây mê nội khí quản.
- Vệ sinh, đặt thông tiểu.
- Đặt cần nâng tử cung bằng nến Hégar số 6 hay cần bơm thuốc tử cung, vừa có tác dụng chủ động thay đổi tư thế tử cung vừa có thể bơm xanh methylen kiểm tra độ thông hai vòi tử cung nếu cần.
- Tư thế bệnh nhân: hai chân duỗi thẳng, dạng rộng. Mông sát mép bàn, đầu thấp (tư thế Trendlenburg). Thông thường chọn tư thế đầu thấp 10-15o, cùng việc bơm CO2 sẽ giúp tạo phẫu trường tốt cho phép thực hiện phẫu thuật. Trong một số trường hợp có thể đặt người bệnh ở tư thế thấp hơn tới 20o hay 30o trong một thời gian ngắn.
1.7.3.2. Tiến hành:
• Thì 1: Vào ổ bụng:
* Kỹ thuật đặt trocart mở ( open laparoscopy – Hansson technique )
Kỹ thuật Hasson (kỹ thuật đặt trocart mở): không chọc mù qua thành bụng để bơm hơi mà rạch ngay một lỗ vừa đủ rộng với trocart ngay ở vị trí sẽ đặt trocart đầu tiên. Mở dần qua các lớp cân cơ thành bụng cho tới lớp phúc mạc, mở phúc mạc, quan sát trong ổ bụng rồi luồn trocart có đầu tù vào trong ổ bụng, sau đó bơm khí trực tiếp qua trocart. Có thể cố định trocart vào thành bụng bằng mũi chỉ hay bằng kẹp Alice ôm chặt trocart để tránh thoát CO2 ra ngoài.
Trước đây kỹ thuật Hasson hay dùng trong trường hợp có VMC ổ bụng, ngày nay kỹ thuật này ngày càng được nhiều phẫu thuật viên chấp nhận trong mọi trường hợp.

gU0g86HDYGZ5i39
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status