Đề án Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sở hữu Nhà nước ở nước ta thời gian tới - pdf 23

Download miễn phí Đề án Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sở hữu Nhà nước ở nước ta thời gian tới



MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I. Sở hữu và sở hữu Nhà nước 2
1. Sở hữu 2
2. Sở hữu Nhà nước 5
 II. Những đổi mới về sở hữu Nhà nước ở nước ta và kết quả đạt được 9
1. Những điểm đổi mới về sở hữu Nhà nước ở nước ta từ 1986 đến nay 9
2. Kết quả đạt được và những tồn tại 11
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sở hữu Nhà nước ở nước ta thời gian tới. 13
1. Đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước 13
2. Đối với vấn đề sở hữu Nhà nước trong nông nghiệp 16
 
Kết luận 21
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


h một mặt phải đảm bảo lợi ích cho nhóm chủ thể sở hữu, mặt khác phải đảm bảo lợi ích cho nhóm chủ thể quản lý kinh doanh (sử dụng). Động lực kinh tế bắt nguồn từ nội dụng bên trong của quan hệ sở hữu tạo nên các lực lượng giai cấp, tầng lớp khác nhau.
Về mặt kinh tế vấn đề ai, giai cấp nào chiếm hữu những tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động và giai cấp nào bị loại ra khỏi chiếm hữu đó có ý nghĩa rất quan trọng. Nói cách khác lợi ích giai cấp được biểu hiện trong đó là khía cạnh quan trọng của quan hệ kinh tế của sở hữu. Lợi ích giai cấp này về bản chất là lợi ích kinh tế trong xã hội có giai cấp nó được bảo vệ bằng pháp lụât
2. Sở hữu Nhà nước.
Lịch sử hình thành và bản chất sở hữu Nhà nước
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở giai đoạn cuối do sự phát triển của LLSX sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần thứ 1, ngành trăn nuôi tách khỏi trồng trọt; lần thứ 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần thứ 3, với sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn v.v... Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt của cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng) đã đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng lớp xã hội và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc đấu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có một tổ chức đặc biệt ra đời để quản lý xã hội. Đó là nhà nứơc.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nô duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không được xem là người). ở đây, trình độ tư hữu của còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối.
Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế độ”phong tước, cấp điền” của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và pháp luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông dân và giai cấp phong kiến.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư (do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không).
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì có 2 cách quá độ lên CNXH. Đối với những nước như nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay nhằm phát triển LLSX thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quĩ đạo.
+ Giai đoạn 1945 – 1959:
Cách mạng tháng tám thành công ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước công – nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam á ra đời với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến Pháp luật giai đoạn 1945 – 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta đã dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất XHCN, chúng ta coi công hữu là mục tiêu.
+. Giai đoạn 1959 – 1960:
Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế phi XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu XHCN ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định “Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân”. Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể; sở hữu tập thể của các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp 1959... thực hiền các Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa cải tạo, trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn cho thời kỳ tiếp theo.
+ Giai đoạn 1980 – 1986:
Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản chất của sở hữu toàn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến pháp 1980 đã quy định các hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối với đất đai, hầm mỏ, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của công dân. Tuy nhiên, xét về thực tế nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp, dân trí thấp vv... Còn về chủ quan, do quá nhiệt tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN. Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của người lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trong tuyên ngôn Đảng cộng sản đã chỉ ra Chúng tui cần gì phải xoá bỏ sở hữu ấy, sự tiến bộ của công nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi.
Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hoá vai trò và tính ưu việt của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế. Năng suất lao động thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế, xã hội. Trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận sai lầm khuyết điểm do chủ quan nóng...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status