Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam - pdf 23

Download miễn phí Đề tài Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam



 
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I- Một số vấn đề về kinh tế thị trường. 2
1. Sự hình thành và phát triển của KTTT. 2
2. Quan điểm của Lênin về KTTT trong CNXH (chính sách kinh tế mới). 4
II- Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. 5
1. Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta. 5
2. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 10
2.1. Cái chung và cái riêng giữa nền KTTT TBCN và KTTT XHCN. 10
2.2. Bản chất và đặc điểm của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. 11
3. Giải pháp phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. 16
3.1. Trước hết cần đẩy mạnh quá trình da dạng hoá sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. 16
3.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lao động xã hội ở nước ta. 17
3.3. Phát triển đồng bộ các loại thị trường. 18
3.4. Các công cụ điều tiết vĩ mô. 19
Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 21
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


Hơn thế nữa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy đồng tiền chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu cùng kiệt và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên; lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng. KTTT có nhiều mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Đó là xu thế phân hoá giàu cùng kiệt quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm... Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực. Trên đây là những vấn đề khái quát nhất về KTTT. Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề KTTT và áp dụng ở Việt Nam như thế nào, chúng ta tiếp tục nghiên cứu.
II- Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1. Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta.
Như đã nói ở trên lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song nghiên cứu một cách nghiêm tục các mô hình đó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn.
Trước đây mô hình kinh tế hiện vật được coi là lý tưởng thì đã bộc lộ những hạn chế và kết quả là, vô tình nó đã phủ định những mục tiêu ban đầu của CNXH. Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế hiện vật là nền kinh tế bị hiện vật hoá, tư duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trên thực tế, yếu tố kế hoạch hoá tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trường, quan hệ hàng hoá tiền tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ thống quản lý quan liệu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Phải chăng việc lựa chọn mô hình bắt nguồn từ luận đề cơ bản: nền kinh tế XHCN mang tính xã hội trực tiếp, do đó nó gắn liền với tính kế hoạch hoá tập trung cao độ; và từ những nguyên nhân sâu xa; một là, những dự báo của những nhà kinh điển là dự báo cho tương lai rất xa với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng chúng ta nóng vội, thiết kế thành những mô hình cụ thể, tức thời, không thể vận hành có kết quả; hai là, CNTB thời kỳ đầu rất dã man, vì thế những người cộng sản khi làm cách mạng thành công, mong muốn thiết kế một mô hình mới để giảm gánh nặng đau khổ cho quần chúng lao động; ba là, các nước XHCN cũng như nước ta phần lớn trải qua chiến tranh lâu dài, mà trong chiến tranh, tập trung cao độ là cơ chế thích hợp "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng". Cùng cần nói thêm một nguyên nhân thứ tư nữa là: Bản thân KTTT có mặt tích cực và tiêu cực như đã nói trên. Đáng lẽ phải tìm thấy cả hai mặt đó, nhưng các nước XHCN chỉ thấy mặt tiêu cực, mặc nhiên phủ định KTTT một cách tuyệt đối.
Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về KTXHCN tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật; nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất - kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không được thực hiện.
KTTT có những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu... đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ mô" để khắc phục khuyết tật của nó. Nhờ sử dụng những yếu tố kích thích của nền KTTT mà CNTB đã đạt được những thành tựu cả về năng suất, chất lượng hiệu quả và một số mặt về xã hội. Mặc dù còn nhiều khuyết tật, song CNTB đã đạt được trình độ cao về kinh tế kế hoạch và công nghệ cũng từ đó có thể rút ra một luận đề "Không phải chế độ XHCN thua chế độ TBCN, không phải KT XHCN thua KT TBCN mà kinh tế hiện vật thua KTTT". Bi kịch Liên Xô và Đông Âu làm cho những người cộng sản chân chính đau đớn nhưng cũng từ đó mà cách nhìn thực tế hơn về kinh tế XHCN, quyết tâm đổi mới. Chính vì vậy, đổi mới, cải cách chính là trở về những cái đã từng có trong đời sống đương đại mà chúng ta bỏ quan. Cần nhận thức rõ rằng, KTTT là một trong những yếu tố của quá trình phát triển xã hội, chứ không phải là cái gì đó riêng có của CNTB. CNXH với những mục tiêu tốt đẹp, nhưng không sử dụng KTTT thì không thể thành công không thể biến những ý tưởng tốt đẹp đó thành hiện thực của cuộc sống.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, KTTT như một tất yếu gắn liền với sự tồn tại của mọi quốc gia, là con đường dẫn đến giàu có, văn minh. Tất nhiên không phải nước nào chuyển sang KTTT cũng giàu có cả. Điều đó còn tuỳ từng trường hợp vào nỗ lực chủ quan, bản lĩnh vai trò và trí tuệ của nhà nước ấy. ở nước ta sự lựa chọn mô hình KTTT là một tất yếu. Do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trong một thời kỳ dài chúng ta đã duy trì nên kinh tế hiện vật theo mô hình của các nước XHCN. Chế độ kinh tế xã hội đó đã tỏ rõ sức mạnh trong chiến tranh, nhưng những khuyến tật nghiêm trọng của nó lại được chính hoàn cảnh chiến tranh ché lập. Mặt khác, nước ta đi lên CNXH từ điểm xuất phát rất thấp, cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu. Nhận rõ điểm xuất phát đó, trong chính sách kinh tế Đảng đã có những tìm tòi với mong muốn thoát khỏi sản xuất nhỏ, nhưng những giải pháp đó được đặt trong môi trường kinh tế hiện vật, nên không mang lại kết quả.
Sau chiến tranh do nguồn việc trợ lớn từ bên ngoài bị cắt giảm đột ngột nên khủng hoảng kinh tế xã hội ở nước ta vốn đã gay gắt, nay càng gay gắt thêm. Đồng thời hàng loạt thử thách làm bộc lộ đầy đủ những khuyết tật của mô hình cũ và hệ quả của những bước đi nóng vội, chủ quan. Trong thực tiễn kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, đã bộ lộ nhiều tiêu cực: sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân sa sút, trong quản lý đã tỏ ra bất lực. Trong nông nghiệp, khoán chui trở thành phổ biến ở nhiều địa phương. Trong công thương nghiệp các nhà máy xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế "Cấp phát - giao nộp" đã tự động "xé rào" do thiếu vật tư nguyên liệu, vốn liếng, do bất lực của công cụ kế hoạch hoá kiểu cũ. Sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ chức. Sự lẳng lặng vi phạm các "qui tắc", "chuẩn mực" lúc bấy giờ, là những phản ứng KTXH phản ánh sự bất cập và bất lực của một cơ chế quản lý cứng nhắc. Những tìm tòi, thử nghiệm trong cuộc sống của ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status