Các vấn đề cơ bản về rủi ro lãi suất - pdf 24

Download miễn phí Đề tài Các vấn đề cơ bản về rủi ro lãi suất



Vấn đề tài sản đến hạn: Trong phần trước chúng ta đã giả sử toàn bộ tín dụng tiêu dùng ngắn hạn đều đến hạn trong vòng 01 năm hay là toàn bộ khoản tín dụng dài hạn có thế chấp với lãi suất cố định được hoàn trả sau 10 năm. Trong thực tế thì ngân hàng thường xuyên cho vay mới và thu hồi nợ cũ đối với tín dụng tiêu dùng ngắn hạn và ngay cả đối với tín dụng dài hạn có thế chấp, giống như ngân hàng luôn huy động vốn mới và thanh toán những khoản huy động đến hạn. Trong thực tế những khoản tín dụng dài hạn có thế chấp thường được trả góp định kỳ hàng tháng hay hàng quý.Do đó ngân hàng có thể tái đầu tư những khoản tiền thu được này trong năm với lãi suất thị trường hiện hành, nghĩa là các khoản thu được trong năm thuộc tài sản có nhạy cảm với lãi suất. Nhà quản trị ngân hàng có thể dễ dàng xử lý trường hợp trả góp trong mô hình định giá lại bằng cách xác định được tỷ lệ thu hồi vốn trong năm của từng tài sản thuộc loại này.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


h là ổn định, thậm chí ngay cả trong trường hợp lãi suất có kỳ hạn thay đổi đáng kể, thì nhà quản trị có thể loại bỏ chúng ra khỏi danh mục tài sản nhạy cảm với lãi suất. Ngược lại, nếu số dư trên tài khoản giao dịch bị ảnh hưởng bởi sự biến động của lãi suất , thì trong trường hợp này coi tài khoản tiền gửi giao dịch thuộc loại tài sản nhạy cảm với lãi suất. Câu trả lời đúng và phù hợp với thực tiễn là sự kết hợp cả hai lý lẽ trên.
Chúng ta quay lai với bảng số liệu trên, ta thấy:
Gọi l CGAP là chênh lệch giữa tài sản có và tài sản-nợ nhạy cảm với lãi suất có kỳ hạn định giá là một năm.
Ta có CGAP = RSA – RSL = 155 – 140 = 15 triệu USD
Biểu diễn kết quả ở dạng phần trăm như sau:
CGAP/A = 15/270 = 0,056 = 5,6%
Bằng cách biểu diễn ở dạnh % này cho ta thấy tính chất của rủi ro lãi suất ( CGAP là dương hay âm), và mức chênh lệch tài sản có tài sản-nợ trên quy mô tài sản của ngân hàng là như thế nào.
Trong ví dụ của chúng ta, ngân hàng có tài sản có nhạy cảm với lãi suất nhiều hơn tài sản-nợ trong kỳ hạn 1năm là 5,6%. Nếu lãi suất tăng 1%, thì thu nhập ròng từ lãi suất sẽ thay đổi trong năm là:
dNii = CGAP * dR = 15 * 0.01 = 150.000 USD
Chúng ta hãy xem xét tỷ lệ % chênh lệch giữa tài sản có và tài sản-nợ nhạy cảm với lãi suất , thời hạn định giá lại là một năm, từ năm 1992 đến năm 1994 của ngân hàng Westpae Bank của úc như sau:
Năm Tài sản có nhạy Tài sản nợ nhạy Chênh lệch Chênh lệch/TSC(%)
cảm với lãi suất cảm với lãi suất
1992 43571 38857 4714 10,82
1993 52479 51344 1135 2,16
1994 55116 52574 2542 4,16
Qua bảng trên thấy rằng chênh lệch giữa tài sản có và tài sản-nợ nhạy cảm với lãi suất luôn là số dương, do đó nếu trong thời kỳ 1992 đến 1994 lãi suất tăng thì ngân hàng Westpae sẽ tăng thêm được thu nhập từ lãi suất . Nhưng trong thực tế thì trong thời kỳ 1992-1994 lãi suất lại giảm, do đó Westpae đã phải chịu rủi ro lãi suất .
Qua phân tích trên, mô hình định giá lại có thể là một công cụ hữu ích đối với các nhà quản trị ngân hàng và những nhà định chế trong việc phòng ngừa rủi ro lãi suất . Tuy nhiên thì mô hình này cũng bộc lộ nhiều điểm yếu:
1.Hiệu ứng của giá trị thị trường:Như chúng ta đả tìm hiểu ở trên, sự thay đổi của lãi suất ngoài ảnh hưởng đến thu nhập lãi suất , cón ảnh hưởng đến giá trị thị trường của tài sản có và tài sản-nợ . Mô hình định giá lại chie đề cập đến giá trị ghi sổ của tài sản mà không đề cập đến giá trị thị trường của chúng. Do đó, mô hình định giá lại chỉ phản ánh được một phần của rủi ro lãi suất đối với ngân hàng mà thôi.
2. Vấn đề kỳ định giá tích luỹ: Vấn đề phân nhóm tài sản theo một khung kỳ
hạn nhất định đã phản ánh sai lệch thông tin về cơ cấu các tài sản có tài sản-nợ trong cùng một nhóm. Ví dụ, giá trị tài sản có và tài sản-nợ trong cùng một nhóm có cùng một kỳ hạn đến hạn có thể bằng nhau, nhưng tài sản-nợ có thể được đánh giá lại tại thời điểm cuối của kỳ định giá và trong lúc đó tài sản có lai được định giá vào thời điểm đầu của kỳ định giá. Giả sử, trong cùng một nhóm tài sản có kỳ hạn từ 3 tháng đến 6 tháng, số lượng tài sản có và tài sản-nợ là bằng nhau là 50 triệu USD, theo mô hình định giá lại thì chênh lệch trong kỳ hạn này là: 50-50 = 0. Nhưng nếu cơ cấu kỳ hạn của tài sản có là từ 3 đến 4 tháng , trong khi cơ cấu tài sản-nợ là từ 5 đến 6 tháng, rõ ràng là kỳ hạn đến hạn giữa tài sản-nợ và tài sản có là không cân xứng với nhau, trong khi đó theo mô hình định giá lại lại coi như không có vấn đề gì đối với thu nhập lãi suất ròng.
Rõ ràng là nếu kỳ định giá càng mau thì những hạn chế của kỳ định giá tích luỹ càng nhỏ. Nếu kỳ định giá được tính toán hàng ngày thì sẽ cho ta một bức trang chân thực về sự thay đổi thu nhập lãi suất ròng. Hiện nay các ngân hàng lớn được mối mạng nội bộ đã cho phép ngân hàng định giá tài sản trong bất kỳ một thời điểm nào. Xét từ góc độ này mô hình định giá lại trở nên có ý nghĩa hơn trong thực tế.
Vấn đề tài sản đến hạn: Trong phần trước chúng ta đã giả sử toàn bộ tín dụng tiêu dùng ngắn hạn đều đến hạn trong vòng 01 năm hay là toàn bộ khoản tín dụng dài hạn có thế chấp với lãi suất cố định được hoàn trả sau 10 năm. Trong thực tế thì ngân hàng thường xuyên cho vay mới và thu hồi nợ cũ đối với tín dụng tiêu dùng ngắn hạn và ngay cả đối với tín dụng dài hạn có thế chấp, giống như ngân hàng luôn huy động vốn mới và thanh toán những khoản huy động đến hạn. Trong thực tế những khoản tín dụng dài hạn có thế chấp thường được trả góp định kỳ hàng tháng hay hàng quý.Do đó ngân hàng có thể tái đầu tư những khoản tiền thu được này trong năm với lãi suất thị trường hiện hành, nghĩa là các khoản thu được trong năm thuộc tài sản có nhạy cảm với lãi suất. Nhà quản trị ngân hàng có thể dễ dàng xử lý trường hợp trả góp trong mô hình định giá lại bằng cách xác định được tỷ lệ thu hồi vốn trong năm của từng tài sản thuộc loại này.
3 .Mô hình thời lượng – The Duration Model.
So với hai mô hình vừa trình bày ở trên thì mô hinhg thời lượng hoàn hảo hơn nhiều trong việc đo mức độ nhạy cảm của tài sản có và tài sản-nợ đối với lãi suất , bởi vì nó đề cập đến những yếu tố thời lượng của tất cả các luồng tiền cũng như kỳ hạnđến hạn của tài sản-nợ và tài sản có, chúng ta xem xét ví dụ với giả thiết: một khoản tín dụng có kỳ hạn 1 năm lãi suất 15% năm, gốc và lãi được thanh toán 6 tháng một lần. Luồng tiền( Cash flow_CF) mà ngân hàng thu về từ khoản tín dụng này tại thời điểm cuối tháng 6 và cuối năm được mô tả như trên đồ thị sau:
Luồng tiền của khoản tín dụng 1 năm:
CF1/2 = $ 57,5 CF1 = $53,75
1/2 năm 1 năm
CF1/2 bao gồm: gốc 50$ và lãi là 7,50$
CF1 bao gồm: gốc 50$ và lãi là 3,75$
Để có thể tính được thời lượng( Duratinon ) của hai luồng tiền trên chúng ta phải quy giá trị của chúng về cùng tại một thời điểm, đó là thời điểm 0, ta có:
CF1/2 = $57,50 à PV1/2 = 57,50/(1 + 0,075) = $53,49
CF1 = 53,75 à PV1 = 53,75/(1 + 0,075)² = $46,51
CF1/2 + CF1 = $111,25 à PV = PV1/2 + PV1 = $100
Cần lưu ý rằng luồng tiền CF1/2 là luồng tiền thu được tại thời điểm sau 6 tháng do đó tỷ lệ chiết khấu là ( 1+R/2 ) nhỏ hơn so với tỷ lệ chiết khấu của luồng tiền CF1 tại thời điểm cuối năm là ( 1+R/2)². Điều này có nghĩa là, do CF1/2 được thu hồi sớm hơn CF1, nên:
(1 + 1/2R) < (1 + 1/2R)²
Vậy bằng thuật ngữ chuyên ngành chúng ta có thể định nghĩa thời lượng như sau: Thời lượng của một tài sản là một thước đo thời gian tồn tại luồng tiền của tài sản này được tính trên cơ sở các giá trị hiện tại của nó.Dựa vào những số liệu chúng ta đã tính toán ở trên , ta xác định được tỷ trọng giá trị hiện tại của hai luồng tiền:
Thời hạn Tỷ trọng(X = PVi/PV)
1/2 năm 0,5349 = 53,49%
1 năm 0,4651 = 46,51%
Cộng 1 = 100%
Xét từ khhía cạnh giá trị hiện tại ta có 53,49% khoản tiền tín dụng được thu hồi tại thời điểm nửa năm và 46,51% được thu hồi tại thời điểm cuối năm. Với đặc điểm này cho nên tổng tỷ trọng các giá trị hiện tại bằn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status