Thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự - pdf 25

link tải miễn phí
LỜI MỞ ĐẦU
Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất không phân chia, nhưng có phân công rành mạch giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, nơi đó phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ Nhà nước Việt Nam. Để đảm bảo sự thận trọng trong việc xét xử và theo thông lệ chung của các quốc gia trên thế giới, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) Việt Nam đã quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Theo đó, bản án, quyết định của tòa án sơ thẩm không có hiệu lực ngay mà có thể được kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại ở tòa án phúc thẩm. Bản án, quyết định của tòa án phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án. Vì thế em đã chọn đề tài: “ Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện” để nghiên cứu sau khi hoàn thành chương trình học luật tố tụng Hình sự.
NỘI DUNG
1. Lý luận chung về thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm.
1.1 Xét xử phúc thẩm và cấp xét xử phúc thẩm,
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án đã được xét xử tại Tòa án cấp sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng khi xét xử Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết vụ án theo nội dung kháng cáo, kháng nghị, bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định.
Cấp XXPT là hình thức tố tụng để xét xử lại vụ án hình sự mà bản án, quyết định của cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật, bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
1.2 Thẩm quyền của tòa án.
Việc nghiên cứu để đưa ra khái niệm chính xác về thẩm quyền của tòa án có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phân định quyền hạn trong bộ máy nhà nước nói chung và ngành tòa án nói riêng. Trước khi đưa ra được thẩm quyền của tòa án, ta phải biết thẩm quyền nghĩa là gì. Theo định nghĩa của từ điển Luật học thì “thẩm quyền” được hiểu là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hoạt động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định”. Khái niệm này gồm hai nội dung chính là quyền hoạt động và quyền quyết định. Trong đó, quyền hoạt động là quyền được làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi luật cho phép.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của tòa án, cùng với việc ra bản án hay quyết định để giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án, tòa án còn có quyền ra quyết định đảm bảo cho việc xét xử. Ngoài thẩm quyền ra quyết định giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án hay đảm bảo cho việc xét xử, khi xét xử tòa án còn có quyền ra quyết định khởi tố vụ án, ra quyết định xử lý hành chính…Vì thế ta có thể đưa ra khái niệm thẩm quyền của tòa án như sau: “Thẩm quyền của tòa án là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định cho tòa án trong việc xét xử và quyết định về những vụ án theo các quy định của pháp luật”
1.3 Tính chất của xét xử phúc thẩm.
Tính chất của phúc thẩm có liên quan chặt chẽ tới thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm. Để làm rõ thẩm quyền cảu tòa án cấp phúc thẩm cần nhận thức đúng về tính chất của phúc thẩm. Theo Điều 230 – BLTTHS năm 2003 quy định tính chất của xét xử phúc thẩm như sau: “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án hay xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hay kháng nghị”.
Theo đó, tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại toàn bộ hay một phần của vụ án mà bản án hay quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hay kháng nghị trong thời hạn pháp luật quy định, chứ không phải chỉ xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
1.4 Thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm.
Tòa án có quyền quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án sau khi đã xem xét toàn bộ vụ án. Theo những phân tích ở trên, thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm là toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho tòa án cấp phúc thẩm trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự đã được các tòa án cấp dưới trực tiếp xét xử sơ thẩm, nhưng bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật do bị kháng cáo, kháng nghị. Trong đó, thẩm quyền về hình thức của tòa án cấp phúc thẩm được thể hiện ở thẩm quyền xét xử phúc thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm. Còn thẩm quyền về nội dung của tòa án cấp phúc thẩm được thể hiện ở quyền quyết định của tòa án cấp phúc thẩm.
Như vậy thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm gồm thẩm quyền xét xử phúc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm và thẩm quyền quyết định của tòa án cấp phúc thẩm.
2. Quy định của pháp luật về thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm.
2.1 Thẩm quyền xét xử của tòa án cấp phúc thẩm.
Về thẩm quyền xét xử phúc thẩm, theo Điều 20, Điều 28 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm được quy định cho những tòa án sau:
+ Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị. Về hình sự, thẩm quyền xét xử phúc thẩm được giao cho tòa chuyên trách hình sự của tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
+ Tòa án cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị.
+ Các tòa phúc thẩm TANDTC có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị kháng cáo, kháng nghị. Hiện nay, ở nước ta có ba tòa phúc thẩm thuộc tòa án nhân dân tối cáo đặt trụ sở tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.
+ Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị.
2.2Phạm vi xét xử phúc thẩm.
Phạm vi xét xử có thể được hiểu là giới hạn mà pháp luật cho phép tòa án cấp phúc thẩm được xem xét và quyết định khi xét xử phúc thẩm. Nếu quyết định những vấn đề vượt ra ngoài giới hạn này thì được coi là trái pháp luật. Phạm vi xét xử phúc thẩm là một thành tố tạo nên thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm. Việc Bộ luật tố tụng Hình sự quy định phạm vi xét xử phúc thẩm có ý nghĩa sau:
Một là, để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà vẫn bảo đảm pháp chế.
Hai là, làm cho việc xét xử phúc thẩm không quá nặng nề dẫn đến hệ quả có người cho rằng xét xử phúc thẩm là xét xử vụ án lần hai.
Vì những lý do đó, BLTTHS quy đinh phạm vi xét xử phúc thẩm tại Điều 241 như sau: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Như vậy, tòa án cấp phúc thẩm chỉ xử lại toàn bộ vụ án nếu có yêu cầu xét xử lại tòan bộ bản án, về nguyên tắc Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét lại phần bản án không có kháng cáo, kháng nghị. Bởi vì, phần đó của bản án đã có hiệu lực pháp luật và những người liên quan trong vụ án đã bằng lòng với phần đó, VKS các cấp qua công tác kiểm sát tư pháp không có kháng nghị. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của bị cáo có kháng cáo, kháng nghị và cho cả bị cáo không kháng cáo, hay không liên quan đến kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể xem xét phần khác của bản án không bị kháng cáo,kháng nghị.


2kNJj92FttN0Hgx

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status