Thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng tại Việt Nam - pdf 27

Download miễn phí Đề tài Thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng tại Việt Nam



Lời mở đầu 2
Chương 1. Cơ sơ lí luận của bất bình đẳng 3
I.Tăng trưởng và các thước đo đánh giá tăng trưởng 3
1. Tăng trưởng 3
2. Các thước đo đánh giá tăng trưởng 3
II. Bất bình đẳng thu nhập và các thước đo đánh giá 6
1. Bất bình đẳng 6
2. Các thước đo bất bình đẳng 6
III. Các mô hình về bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế 9
1. Mô hình Kuznets 9
2. Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewis 10
3. Mô hình phân phối lại trước, tăng trưởng sau 11
4. Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H.Oshima 12
5. Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế của World Bank 13
Chương II. Thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng tại Việt Nam 15
I. Tình hình tăng trưởng của Việt Nam trong những năm gần đây 15
II.Thực trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tại Việt Nam 18
III. Tác động của bất bình đẳng trong tăng trưởng kinh tế 24
Kết luận: 29
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ơn 17% của tổng thu nhập thì tương đối bình đẳng.
Khi thu nhập của 40% dân số có mức thấp nhất trong xã hội chiếm tỉ lệ từ 12% đến 17% của tổng thu nhập thì tình trạng bất bình đẳng tương đối.
Khi thu nhập của 40% dân số có mức thấp nhất trong xã hội có tỉ lệ nhỏ hơn 12% của tổng thu nhập thì tình trạng bất bình đẳng cao.
2.4. Hệ số giãn cách thu nhập
Trong nhiều công trình nghiên cứu, chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập được sử dụng để đánh giá tình trạng bất bình đẳng thu nhập. Chỉ tiêu này được xác định bởi mức chênh lệch thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất và 20% dân số có thu nhập thấp nhất. Hệ số giãn cách thu nhập (chênh lệch) càng lớn, tình trạng bất bình đẳng càng cao.
III. Các mô hình về bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế
1. Mô hình Kuznets
Trong năm 1955, Simon Kuznets (nhà kinh tế học người Mỹ) đã đưa một mô hình nghiên cứu magn tính thực nghiệm nhằm xem xét mối quan hệ giữa thu nhập và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được thể hiện theo hình chữ U ngược. Qua các nghiên cứu Kuznets đã đưa ra giả thiết cho rằng: bất bình đẳng sẽ tăng ở giai đoạn ban đầu và giảm ở giai đoạn sau khi lợi ích của sự phát triển được lan tỏa rộng rãi hơn. Nếu biểu diễn mối quan hệ trên đồ thị sẽ có dạng chữ U ngược. Nguyên nhân của hiện tượng này là do các yếu tố liên quan đến cầu. Cụ thể, tại thời điểm bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá, công nghệ và thể chế thay đổi sẽ kéo theo nhu cầu về vốn và lao động có kỹ năng, trong khi hạ thấp vai trò của lao động không có kỹ năng. Sau đó, kỹ thuật mới liên tục xuất hiện (theo nguyên tắc đàn nhạn bay - “catching up”), còn thể chế thì thay đổi chậm hơn. Nhờ đó, thu nhập của đại bộ phận lao động (chuyên môn kém) cũng được cải thiện bởi vai trò của yếu tố nhân lực trong cơ cấu sản phẩm lại được chú trọng
Giai đoạn I: đối với một quốc gia thì đây là giai đoạn đầu kinh tế chưa tăng trưởng, thu nhập bình quân thấp, bất công trong phân phối thu nhập thấp.
Giai đoạn II: kinh tế có tăng trưởng, thu nhập bình quân tăng, bất công cũng tăng theo.
Giai đoạn III: kinh tế phát triển, thu nhập bình quân cao, tình trạng bất công lại giảm.
Hạn chế trong mô hình Kuznets là không giải thích được 2 vấn đề quan trọng. Thứ nhất là không giải thích được nguyên nhân nào tạo ra sự thay đổi bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Và thứ hai là phạm vi khác biệt giữa các nước về xu thế thay đổi này trong điều kiện họ sử dụng các chính sách khác nhau tác động đến tăng trưởng và bất bình đẳng.
2. Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewis
Dưới dạng tổng quát, A. Lewis cũng nhất trí với Kuznets về nhận xét cho rằng sự bất bình đẳng tăng lên lúc đầu và sau đó giảm bớt khi đã đạt được tới mức độ phát triển nhất định. Nhưng tiến thêm một bước, mô hình đã giải thích được nguyên nhân của xu thế này. Trước hết, sự bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu bởi vì cùng với việc mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp, số lượng lao động được thu hút vào làm việc ở khu vực này ngày càng tăng lên nhưng tiền công của công nhân nói chung vẫn ở mức tối thiểu. Như vậy, trong khi mức tiền công của công nhân không thay đổi thì thu nhập của các nhà tư bản vừa tăng lên do quy mô mở rộng, vừa tăng lên do lao động công nhân đưa lại. Ở giai đoạn sau sự bất bình đẳng giảm bớt do khi lao động dư thừa được thu hút vào khu vực thành thị (sản xuất công nghiệp và dịch vụ) thì lao động trở thành yếu tố khan hiếm trong sản xuất. Nhu cầu lao động ngày càng tăng thêm đòi hỏi phải tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng.
Trong mô hình này thì sự bất bình đẳng không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng. Sự bất bình đẳng ở đây cũng có nghĩa là các nhà tư bản và nhóm người có thu nhập cao sẽ nhận được nhiều hơn. Và họ là những người sử dụng phần tiết kiệm của mình tạo ra tích lũy mở rộng sản xuất. Bất bình đẳng là điều kiện để người giàu tăng tích lũy, tăng đầu tư, do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3. Mô hình phân phối lại trước, tăng trưởng sau
Mô hình được đúc kết qua kinh nghiệm phát triển của những quốc gia có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Ở những quốc gia này,sự phát triên được bắt đầu bằng cách “tước đoạt của những kẻ tước đoạt”. Nhà nước tiến hành công hữu hóa các nguồn lực chủ yếu của phát triển kinh tế. Các nguồn lực sản xuất được phân phối lại cho các đơn vị nhà nước và người sản xuất nhỏ trong công nghiệp cũng như nông nghiệp dưới hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể.
Hệ quả của cách này là ngay lập tức, tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập không còn đáng kể. Tuy nhiên, trong dài hạn có 2 hệ quả có thể xảy ra:
Một là, nếu những người chủ mới bao gồm các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể quản lí có hiệu quả các tài sản và các nguồn lực sản xuất tốt hơn các chủ cũ thì tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế được thực hiện. Như vậy, đồng thời thực hiện được công bằng trong phân phối thu nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hai là, nếu những người chủ mới không thể quản lí có hiệu quả các tài sản và nguồn lực thì tăng trưởng và phát triển không thể đảm bảo thực hiện. Như vậy, thực hiện được công bằng trong phân phối thu nhập nhưng không thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thực tiễn cho thấy, hệ quả thứ hai thường xuất hiện vì những người chủ mới chưa đủ kinh nghiệm và năng lực quản lí kinh tế và khả năng tích lũy từ khu vực công và tập thể rất chậm.
4. Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H.Oshima
H.Oshima cho rằng có thể giảm tình trạng bất bình đẳng ngay trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Xuất phát từ đặc điểm sản xuất nông nghiệp châu Á, quá trình phát triển bắt đầu từ khu vực nông nghiệp nên khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay từ giai đoạn đầu. Do việc tập trung phát triển khu vực nông thôn dựa trên chính sách cải cách ruộng đất, dựa trên sự trợ giúp của Nhà nước về giống, kĩ thuật, đồng thời việc mở rộng và phát triển ngành nghề đã làm cho thu nhâp ở khu vực nông thôn (vốn là khu vực có thu nhập thấp trong xã hội) được tăng dần.
Tiếp đó là quá trình cải thiện dần khoang cách thu nhập giữa xí nghiệp có qui mô lớn và xí nghiệp có qui mô nhở ở thành thị, cũng như giữa nông trại lớn và nông trại nhỏ ở nông thôn. Quá trình này có thể chia làm 2 giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, khoảng cách thu nhập tăng lên do các cơ sở sản xuất lớn tận dụng được lợi thế về qui mô và có điều kiện áp dụng kĩ thuật mới. Sau đó do lợi ích của cơ sở hạ tầng và khả năng áp dụng kĩ thuật mới tăng lên ở các cơ sở nhỏ, làm cho khoảng cách về thu nhập giảm dần.
Theo Oshima, tiết kiệm sẽ được tăng lên ở các nhóm dân cư, kể cả các nhóm có thu nhập thấp nhất, vì thu nhập ở họ dần dần thỏa mãn được các khoản chi và khi đó họ bắt...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status