Lý luận chung về lãi suất - pdf 27

Download miễn phí Lý luận chung về lãi suất



Cần khẳng định lại rằng, lãi suất là một công cụ rất quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua đó, lãi suất đóng vai trò to lớn trong việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô khác của nhà nước. Do vậy cơ chế điều hành lãi suất phải được thay đổi thường xuyên theo từng thời kỳ phát triển kinh tế và trình độ quản lý tài chính. Nếu mà làm tốt điều này thì lãi suất mới phát huy được tác dụng của nó là điều chỉnh khối lượng tièn trong lưu thông, kiểm soát lạm phát, và phục vụ cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong thời gian qua, ngân hàng nước ta đã trải qua hơn 10 năm đổi mới (10/1990), trong thời gian đó cũng là hơn 10 năm không ngừng đổi mới chính sáh điều hành lãi suất của NHNN theo hướng tiến dần đến một chính sách lãi suất thị trường phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế nước ta trong từng giai đoạn nhất định. Lộ trình đổi mới chính sách lãi suất đi từ giai đoạn thực thi chính sách lãi suất âm, sau đó thực hiện chính sách lãi suất dương, tiếp theo đó NHNN áp dụng chính sách lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thõa thuận, tiếp theo lại chuyển từ lãi suất thõa thuận sang lãi suất trần còn hiện nay chúng ta đã bỏ lãi suáat trần và hiện nay chúng ta đang thi hành lãi suất cơ bản do NHNN qui định. Chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu đã đạt dược do các loại lãi suất trước kia mang lại, tuy nhiên nó vẫn còn có những hạn chế nhất định có thể là do điều kiện khách quan hay chủ quan mang lại và điều này là không thể tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường. Song trong điều kiện hiện nay, nếu chúng ta vẫn sử dụng các chính sách lãi suất như trước kia thì rõ ràng là không phù hợp, trong trường hợp nào đó nó có thể mang lại những hậu quả bất lợi cho nền kinh tế. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay chúng ta thực hiện chính sách lãi suất cơ bản là hoàn toàn hợp lý. Tuy sau một thời gian chưa dài thực hiện chính sách lãi suất cơ bản, chúng ta đã thấy được tính ưu việt của chính sách lãi suất mới đó là NHNN kiểm soát được mức lãi suất cho vay cũng như lãi suất tiền gửi nhằm tránh được những tiêu cực phát sinh, các TCTD chủ động và linh hoạt hơn trong việc ấn định lãi suất kinh doanh cho phù hợp với những biến động của thị trường tiền tệ và đặc điểm hoạt động của từng loại hình tín dụng, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD, góp phần vào việc phân bổ tín dụng một cách hợp lý giữa các vùng, giữa các loại hình doanh ngiệp,. Từ đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế một cách cân đối và có hiệu quả cao. Góp phần rút ngắn thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội.\.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ệu lực kinh doanh thì chính phủ đã ban hành nghị định 53/HĐBT và hai pháp lệnh về ngân hàng để tách hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên trong giai đoạn này lạm phát đang ở mức cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất âm. Ngân hàng nhà nước (NHNN) chỉ qui định lãi suất tiền gửi và tiền vay để các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện.
Ta thấy lãi suất âm có các đặc điểm như sau:
+ Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
+ Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động.
Xuất phát từ những đặc điểm này, nó đã gây ra cho hệ thống lãi suất âm này rất nhiều tiêu cực, cụ thể:
+ Khả năng huy động vốn đi đôi với yêu cầu rút bớt tiền trong lưu thông đã gây áp lực lên giá cả hàng hoá.
+ Nhu cầu vay vốn phát triển lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho ngân hàng.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng, làm cho ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ một cách bình thường theo cơ chế thị trường.
2. Giai đoạn cuối năm 1992 - Chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương.
Khi mà lạm phát đã đươc kìm chế và đã bị đẩy lùi tương đối thấp thì mới có điều kiện thực hiện lãi suất dương, tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát. Tháng 10/1992 NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/1993 thì thực hiện lãi suất dương hoàn toàn, nhưng NHNN vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi, tiền lãi cho vay cụ thể và có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế như: cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi tiền gửi các tổ chức kinh tế. Từ đó gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp.
3. Giai đoạn vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thõa thuận.
Ngày 01/10/1993 NHNN qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể. Theo đó NHNN cho phép các tổ chức tín dụng(TCTD) cho vay theo lãi suất thõa thuận vượt mức cho vay cụ thể (Quyết Định 184/QĐ ngày 28/09/93):
+ Lãi suất cho vay đối với dóanh nghiệp nhà nước là 1,8%/tháng, lãi suất cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất là 2,1%/tháng.
+ Lãi suất cho vay thõa thuận giữa ngân hàng và khách hàng: Nếu vốn huy động tiền tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất qui định mà không đủ để cho vay thì các tổ chức tín dụng được phép phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn tối đa là 0,2%/tháng và cho vay với mức lãi suất cao hơn mức 2,1%/tháng trên cơ sở thõa thuận với khách hàng theo phương châm: ngân hàng kinh doanh được và người vay chấp nhận được. Cơ chế lãi suất cho vay thõa thuận có người gọi đó là ” Tự do hoá lãi suất một nữa”
Trong lãi suất thõa thuận, mức chênh lệch giữa sàn (tiền gửi) và trần (cho vay) rất lớn khoảng từ 0,7%-1,0%/tháng, làm cho các ngân hàng thương mại có mức lợi nhuận quá cao trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân (chiếm khoảng 30-60% tổng dư nợ) gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế này, tại kỳ họp lần thứ 8, Quốc hội khoá IX (08/95) đã đi đến thống nhất cùng với việc bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lêch giữa lãi suất huy đọng vốn và lãi suất cho vay bình quân là 0,35%/tháng. Đây là duyên cớ đẻ ra đời cơ chế lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho vay thõa thuận từ ngày 01/01/96.
4. Từ ngày 01-01-96 là giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất.
Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội về việc bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng, cùng với việc yêu cầu ngân hàng giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức 0,35%/tháng nên NHNN đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các NHTM chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc quyết định các mức lãi suất cho vay thõa thuận. Trần lãi suất cho vay được qui định ở nhiều mức khác nhau do căn cứ vào đặc điểm có nhiều loại hình TCTD hoạt động khác nhau nên quyết định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau. Ban đầu có 4 trần lãi suất:
+Trần lãi suất cho vay ngắn hạn (áp dụng cho khu vực thành thị ).
+Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn (Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn).
+Trần lãi suất áp dụng cho các TCTD cho vay trên địa bàn nông thôn (cao hơn lãi suất cho vay ngắn – trung – dài hạn ).
+Trần lãi suất cho vay của Qũi Tín Dụng Nhân Dân đối với mọi thành viên (Cao hơn 3 trần lãi suất trên ).
Giữa các loại lãi suất này lúc đầu có sự chênh lệch khá xa, nhưng sau nay cứ mỗi lần điều chỉnh đã rút ngắn dần khoảng cách và chỉ còn chênh lệch rất ít. Cụ thể là từ ngày 21/01/98 đến nay, tại kỳ họp lần thứ 2, Quốc hội khoá IX (12/97) quốc hội đã cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, NHNN đã qui định các mức lãi suất mới “Rút từ 4 trần xuống còn 3 trần” và không còn qui định mức chênh lệch 0,35%/tháng nữa.
4.1. Những ưu điểm của chính sách lãi suất trần.
+ Điều hành lãi suất theo trần là NHNN quản lý lãi suất cho vay tối đa, từng bước tự do hoá lãi suất theo định hướng của nghị quyết TW 4. Trong phạm vi trần lãi suất đã qui định, các tổ chức tín dụng đã tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình cung-cầu về vốn, chính sách khách hàng và cạnh tranh của từng TCTD và phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động của ngân hàng giữa các vùng khác nhau.
+ Điều hành chính sách lãi suất theo trần khuyến khích các TCTD trong việc cạnh tranh lành mạnh và tăng cường vai trò tự chủ trong kinh doanh tiền tệ, chủ động trong việc điều hòa quan hệ cung-cầu trên thị trường về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất một cách linh hoạt nhạy bén theo cơ chế thị trường.
+ Việc qui định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất trong phạm vi cả nước, xoá bỏ tình trạng cho vay theo lãi suất thõa thuận, vượt xa các mức lãi suất do NHNN qui dịnh trước đó.
+ Các tổ chức tín dụng không cho vay với lãi suất vượt trần, bảo vệ lợi ích của người vay, tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữ các thành phần kinh tế và người gửi tiền.
+ Đảm bảo được vai trò quản lý nhà nước của NHNN về lãi suất và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lãi suất của NHNN.
4.2. Những mặt hạn chế của chính sách lãi suất trần.
Bên cạnh những ưu điểm của chính sách lãi suất trần, thì chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào vấn đề để tìm ra những khuyết tật của nó để từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn nhằm ngày càng hoàn thiện chính sách lãi suất để nó ngày càng có hiệu lực mạnh hơn.
+ Quản lý lãi suất trần l
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status