Công ty cổ phần hoá và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay - pdf 27

Download miễn phí Đề tài Công ty cổ phần hoá và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay



Tạo ra sân chơi bình đẳng doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Do đó có thể thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá cần tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế và ngoài nước. Đồng thời cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh.
2. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập, trong thời gian đầu của các doanh nghiệp cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu.
Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiệnk hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong 2 năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Được duy trì và phát triên quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật. Các chương trình văn hoá, câu lạc bộ nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công đoàn.
3. Nhà nước cần có sự hỗ trợ giúp đỡ đối với cán bộ công nhân viên có đủ khả năng mua cổ phần ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như Nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp.
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


Phần I
Lời nói đầu
Công ty cổ phần và vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước không còn là những hiện tượng kinh tế xã hội là đối với nền kinh tế thế giới. Công ty cổ phần đã xuất hiện từ thế kỷ XVII và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ diễn ra cách mạng công nghiệp. Đến đầu thế kỷ XX, công ty cổ phần đã trở thành hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển.
Đại hội đảng lần thứ VI (12/1986) chính thức đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt Nam. Quá trình chuyển đổi kinh tế thị trường không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, cơ chế vận hành, quan hệ sở hữu mà còn xuất hiện những tổ chức kinh tế mới trong đó có công ty cổ phần.
ở nước ta, luật Công ty đã được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 21/12/1990. Tuy nhiên đối với chúng ta đây vẫn còn là một vấn đề rất mới mẻ. Vì vậy, việc đưa ra và bàn bạc vấn đề “Công ty cổ phần hoá và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay” là xuất phát từ sự cấp thiết và tính thời sự của nó.
Trong phạm vi bài viết này, do sự hiểu biết còn hạn chế, em chỉ xin đề cập đến một số vấn đề cơ bản sau đây.
Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần hoá
Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Quan điểm và giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam
Phần II
Sự ra đời và phát triển của công ty
cổ phần hoá
Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là một thách thức lớn đối với Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21. Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực, hi vọng có thể thành lập thị trường chứng khoán vào đầu thiên niên kỷ tới mà trước hết công việc có tầm chiến lược quan trọng là cổ phần các doanh nghiệp Nhà nước, những Công ty cổ phần chính là những tế bào của cơ chế thị trường chứng khoán, nó là một hình thức tổ chức doanh nghiệp kinh doanh do nhiều người góp vốn nhưng đóng góp với hình thức cổ phần thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ thứ 16 ở các nước phát triển đến nay đã có lịch sử phát triển hàng máy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất kỳ lực lượng nào mà là một quá trình phát triển kinh tế khách quan, do những nguyên nhân sau.
- Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích luỹ và tập chung tư bản ngày càng cao để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị tạo điều kiện nâng cao năng xuất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Song đây là một biện pháp hết sức khó khăn và hơn nữa việc tích tụ vốn phải mất một thời gian rất dài mới có thể thực hiện được. Một lối thoát có hiệu quả là các nhà tư bản vừa và nhỏ phải liên minh với nhau để thành một tư bản lớn để đủ sức cạnh tranh và giành ưu thế với các nhà tư bản khác. Đó chính là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần hoá ra đời.
Sự ra đời của nền đại công nghiệp cơ khí tiến bộ kỹ thuật tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Công ty cổ phần ra đời từ thế kỷ 16 nhưng phải đến tận thế kỷ 19 mới phát triển rộng rãi và trở thành phổ biến trong các nước tư bản. Công ty cổ phần hình thành và phát triển mạnh mẽ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển không thể nào thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu cần sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phần chỉ được thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân Ngân hàng tiến hành. Hầu hết các Công ty cổ phần đều nẩy sinh từ sự giúp đỡ của Ngân hàng. Như vậy về lịch sử cũng như về lô gic tín dụng là một cơ sở trực tiếp, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển.
Tuy vậy công ty cổ phần không thống nhất với hình thức tín dụng. Khi mà cổ phần người mua hàng không phải là người cho vay của Công ty cổ phần, mà làm chủ chung của Công ty đó. Như trên thực tế việc bỏ vốn tìm ra mua cổ phần chẳng qua là việc chuyển hoá vốn đó thành vốn sinh lợi .
Đứng về mặt kinh tế thuần tuý không thể coi người chủ cổ phần với người chủ cho vay là một. Người chủ cho vay đòi hỏi phải có cho vay.Trái lại sự xuất hiện của công ty cổ phần là thủ tiêu người cho vay và thay vào đó là người quản lý, người giám đốc làm thuê, lợi tức của vốn cho vay cũng phải là lợi nhuận của doanh nghiệp với tư cách là thu nhập do quyền sở hưũ mang lại. Lợi tức cổ phần mà người chủ cổ phiếu nhận được có nghĩa là toàn bộ lợi nhuận chuyển hoá thành.
Như vậy Công ty cổ phần hoá là một loại hình doanh nghiệp mới, một loại hình trên cơ sở tín dụng. Trong lịch sử Công ty cổ phần là một kiểu tổ chức doanh nghiệp có nhiều ưu thế vì thế các Nhà nước tư bản độc quyền đã coi trọng loại hình này, nhiều Nhà nước tư bản độc quyền đã sử dụng các tổ chức tài chính đa dạng để tạo khả năng huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu traí phiếu. Đồng thời sử dụng quyền lực trong việc tạo ra môi trường kinh tế, yếu tố tâm lý cũng như cơ sơ pháp luật thuận lợi thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá tạo điều kiện ra đời các công ty cổ phần.Với động tác này các công ty cổ phần đã phát triển mạnh và thịnh hành trong gia đoạnh tư bản chủ nghĩa ta bản độc quyền nhà nước có nền kinh tế phát triển. Ví dụ ở Mỹ vào năm 1939 số lượng các Công ty cổ phần chiếm 51,7% tổng số các tổ chức kinh doanh công nghiệp và 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Công ty cổ phần là qúa trình phát triển kinh tế khách quan đòi hỏi của sự hình thành và phát triênr của nền kinh tế thị trường, nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản, nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản, nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền kinh tế đại công nghiệp và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
Phần II
sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước ở việt nam
Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế khách quan, một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược.
Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 ở Miền Nam. Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên nhiều quan điểm nên các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có nhiều đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trên thế giới.
Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu ph...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status