Thực trạng hoạt động phân phối của trung tâm FPT internet - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Thực trạng hoạt động phân phối của trung tâm FPT internet



 
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Lý luận chung 3
1.Internet-sản phẩm của ngành bưu chính viễn thông. 3
Lý luận chung 5
1 marketing trong linh vực dịch vụ 5
3.Kênh phân phôi trong dich vụ viễn thông 11
3.1.Lý luận chung về kênh 11
3.2.Kênh marketing trong lĩnh vực dịch vụ. 22
II. Thực trạng hoạt động phân phối của trung tâm FPT internet. 24
1.Khái niệm, cơ sở hình thành và phát triển của thương mại điện tử-Internet. 24
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của trung tâm FPT Internet. 26
3.Những hạn chế của kênh phân phối và các biến số marketing tại trung tâm FPT-Internet. 34
III. Các giải pháp hoàn thiện kênh phân phối. 38
KẾT LUẬN 42
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ách hàng sẵn sàng mua. Mức đó người bán lẻ thực hiện các công việc phân phối là rất khác nhau có những người bán lẻ cố gắng tối đa làm tất cả công viêc phân phối thích hợp với họ, song cũng có người bán lẻ lại chỉ làm một ít công việc. Một số người bán lẻ chọn chiến lược cung cấp dịch vụ phân phối ở mức bán lẻ nhiều nhất. Ngược lại, một số nhà bán lẻ lại bán giá thấp với mức độ cung cấp dịch vụ bán lẻ thấp nhất. Họ bán các hỗn hợp hàng hoá không dự định trước, không có dịch vụ cá nhân thường phải xếp hàng dài để trả tiền. Quy mô tăng lên của người bán lẻ có ảnh hưởng đến phân chia các công việc phân phối trước đây do người sản xuất và bán buôn làm nay được chuyển sang cho người bán lẻ có quy mô lớn . Như vậy quy mô của người bán lẻ tạo nên tiềm năng cho họ thực hiện các công việc phân phối có hiệu quả. Mặt khác, quy mô lớn của người bán lẻ làm tăng sức mạnh và tính độc lập của họ, họ không dễ dàng bị ảnh hưởng bởi ngưòi sản xuất nữa. Nhiều nhà bán lẻ bây giờ đã đủ lớn để gây sức ép đối với người cung cấp, chỉ mua và bán những hàng hoá phù hợp với nhu cầu của các khách hàng của họ. Các loại trung gian bán lẻ khác nhau có qui mô, cách kinh doanh và sức mạnh chi phối thị trường khác nhau, tất nhiên họ cũng có khả năng điều khiển các kênh khác nhau. Các thành viên chính thức của kênh chủ động tham gia vào quá trình phân chia công việc phân phổi trong kênh marketing và chịu trách nhiệm trước kết quả cuối cùng của kênh. Mỗi thành viên đều phải nhận thức được trách nhiệm và quyền lợi của họ phụ thuộc vào thành công của hệ thống kênh marketing. Người tiêu dùng cuối cùng bao gồm cả người tiêu dung cá nhân và người tiêu dùng công nghiệp, là điểm đến cuối cùng của hàng hoá và dịch vụ. Chi khi nào hàng hoá tới người tiêu dùng cuối cùng, quá trình phân phôi mới hoàn thành. Người tiêu dùng cuối cùng với vai trò quan trọng trong kênh marketing vì họ có quyền lựa chọn những kênh khác nhau để cung cấp hàng hoá cho họ. Tập hợp người tiêu dùng và hành vi mua của họ thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các kênh marketing.Trong một số kenh marketing hàng tiêu dùng đặc biệt, người sử dụng cuối cùng sẽ đóng vai trò người lãnh đạo kênh. Các tổ chức bổ trợ là các doanh nghiệp và cá nhân cung cấp cho thành viên của kênh những công việc phân phối khác ngoài mua bán và chuyển quyền sở hữu. Họ tái hợp đồng với những thành viên của kênh để thực hiện một công việc phân phối nào đó theo nguyên tắc chuyên môn hoá và phân công lao động. Các hệ thống kênh marketing càng phát triển ở trình độ cao, các tổ chức bổ trợ càng đa dạng và phong phú. Một trong những đặc trưng rất khác biệt giữa các nước phát triển và chậm phát triển chính là ở mức độ phong phú của các tổ chức bổ trợ trong phân phối. Nền kinh tế càng phát triển ở trình độ cao, các tổ chức bổ trợ càng nhiều cả về số lượng lẫn chủng loại. Các tổ chức bổ trợ chính là: các doanh nghiệp vận tải, các doanh nghiệp kinh doanh kho, các công ty nghiên cứu thị trường,các công ty bảo hiểm, các doanh nghiệp lắp ráp, các doanh nghiệp trưng bày hàng hoá. Các tổ chức bổ trợ không chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động của các thành viên chính thức cũng như kết quả cuối cùng của kênh marketing. Tuy nhiên, họ góp phần quan trọng làm cho hệ thống kênh hoạt động thông suốt và tăng hiệu quả hoạt động của kênh. Xu thế phát triển trên thị trường là ngày càng có nhiều các tổ chức bổ trợ tham gia vào quá trình phân phối.
Trong nền kinh tế có nhiều vấn đề cơ bản cần được giải quyết bằng quá trình phân phối của các doanh nghiệp và của tổng thể nền kinh tế. Thứ nhất là mâu thuẫn giữa sản xuất khói lượng lớn, chuyên môn hoá với nhu cầu tiêu dùng với khối lượng nhỏ nhưng đặc biệt đa dạng. Thứ hai là sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và tiêu dùng do sản xuất tập trung lại một địa điểm còn tiêu dùng rộng khắp hay ngược lại. Thứ ba là sự khác biệt về thời gian do sản xuất và thời gian tiêu dùng không trùng khớp, có thể sản xuất có tính thời vụ còn tiêu dùng quanh năm hay ngược lại. Ngoài ba vấn đề cơ bản trên, trong nền kinh tế còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn khác như sự khác biệt vềthông tin và giá trị, sự khác biệt về quyền sở hữu...Mục đích của hệ thống kênh marketing là là giải quyết những sự khác biệt và mâu thuẫn trên qua quá trình phân phối tổng thể. Hệ thống kênh markeing hiệu quả là cần thiết để nối người sản xuất và người tiêu dùng, nó có ý nghĩa phân phối hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội và mong muốn của khách hàng. Cung cấp hàng hoá cho họ đúng thời gian, đúng địa điểm và ở mức giá họ có thể trả. đây không phải là công việc dễ dàng, đặc biệt trong điều kiện hàng hoá và sản xuất rất đa dạng và nhu cầu của khách hàng cũng rất phong phú. Cách thức tổ chức các quá trình phân phối tiêu thụ sản phẩm để giải quyết các mâu thuẫn cố hữu cuả nền kinh tế là trung tâm của lý thuyết kênh marketing. Các chức năng marketing có thể giúp làm điều đó như mua,bán, vận chuyển, lưu kho, tiêu chuẩn hóa và phân loại, tài chính, chịu rủi ro, thông tin thị trường. Các thành viên tham gia vào kênh marketing phải thực hiện các chức năng nay.Từ quan điểm kênh marketing vĩ mô, tất cả các chức năng của kênh đồng nghĩa với các giai đoạn của quá trình lưu thông tiêu thụ tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Không có chức năng nào có thể bỏ qua. Quá trình phát triển của kênh marketing trong lịch sử trải qua ba giai đoạn từ kênh trực tiếp đến các kênh qua thị trường trung tâm và cuối cùng là kênh có nhiều cấp độ với sự tham gia của các trung gian thương mại chuyên môn hoá. Sự khác biệt cơ bản của các kênh marketing và khung cảnh buôn bán giữa các thời kỳ là ở mức độ trực tiếp của quan hệ phân phối tiêu thụ. Xã hội phát triển với công nghệ thông tin hiện đại đã hình thành và phát triển nhiều hình thức kênh kiểu mới như maý bán hàng, bán hàng qua điện thoại, đặt hàng băng thư, bán hàng tại nhà, bán hàng qua mạng máy tính...là những hình thức bán hàng không cần cửa hàng. ở các nước đang phát triển như Việt Nam, kênh trực tiếp là một cách kinh doanh điển hình. Thị trường phát triển đã làm xuất hiện cấu trúc kênh qua thị trường trung tâm thay thế dần cho các kênh trực tiếp. Một thị trường trung tâm xuất hiện khi các hộ kinh doanh quyết định gặp nhau ở một địa điểm để trao đổi mua bán. Trao đổi ở một địa điểm trung tâmcó những tiến bộ hơn so với trao đổi trực tiếp. Xã hội tiếp tục phát triển, các thị trường trung tâm xuất hiện, các doanh nghiệp độc lập thực hiên chức năng thương mại chuyên ngiệp. Doanh nghiệp chuyên môn hoá này trao đổi trực tiếp với khách hàng,họ mua hàng hoá và bán lại cho người tiêu dùng, tự nguyện chấp nhận rủi ro. Trên thị trường dần dần xuất hiện các trung gian thương mại chuyên môn hoáthực hiện chức năng bán buôn. Người bán buôn mua hàng hoá với khối lượng lớn từ nhà sản xuất và bán một tập hợp hàng hoá cho người bán lẻ. Nhờ sự xuât hiện của các tổ chức bán buôn tham gia vao quá trình phân phối, các nhà bán lẻ có cơ hội cải thiện dịch vụ khách hàng ở những vị trí thuận lợi. Với sự xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp bán buônvà bán lẻ tham gia vào quá trình phân phối, cấu trúc kênh nhiều cấp độ đã được hình thành. Để tổ chức và quản lý được các kênh marketing một cách tốt nhất, chúng ta phải hiểu được cách thức hoạt động của các kênh marketing. Kênh marketing hoạt động được thông qua các dòng vận động hay nói cách khác là các dòng chảy. Các dòng chảy này kết nối các thành viên của kênh với nhau. Mỗi dòng chảy là một tập hợp các chức năng được thực hiện thương xuyên bởi các thành viên của kênh. Các dòng chảy chủ yếu bao gồm dòng chuyển quyền sở hữu mô tả việc quyền sở hữu sản phẩm được chuyển từ thành viên này sang thành viên khác trong kênh. Dòng đàm phán giữa các thành viên trong kênh tác động qua lại lẫn nhau để phân chia các công viêc phân phối cũng như trách nhiệm và quyền lợi của các thành viên. Dòng vận động vật chất của sản phẩm là sự di chuyển hàng hoá vật phẩm thật sự trong không gian và thời gian từ địa điểm sản xuất tới địa điểm tiêu dùng qua hệ thống kho tàng và phương tiện vận tải. Dòng thanh toán mô tả sự vận động của tiền tệ và các chứng từ thanh toán ngược từ người tiêu dùng qua các trung gian thương mại trở lại người sản xuất. Dòng thông tin giữa các thành viên trong kênh phải trao đổi thông tin với nhau, có thể là trao đổi giữa hai thành viên kế cận hay không kế cận. Dòng xúc tiến mô tả những hoạt động xúc tiến hỗn hợp hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong kênh. Một thành viên trong kênh có thể trợ giúp các thành viên khác trong các hoạt động xúc tiến. Dòng đặt hàng là cách và cơ chế thu thập , tập hợp và xử lý đơn đặt hàng giữa các thành viên của kênh marketing. Dòng chia sẻ rủi ro là trong quá trình phân phối tiêu thụ sản phẩm chứa đựng nhiều rủi ro bao gồm rủi ro về thiệt hại vật chất trong vận chuyển và bảo quản dự trữ sản phẩm do nhu cầu thị trường thay đổi. Dòng tài chính là cơ chế tạo vốn và hỗ trợ vốn trong các kênh marketing. Trong quá trình lưu thông sản phẩm ở những cấp độ nhất định, vào những thời điểm nhất định, một thành viên kênh có ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status