Thực trạng phân tích Báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình - pdf 28

Download miễn phí Thực trạng phân tích Báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình



MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ KINH DOANH ĐỊA ỐC HOÀ BÌNH 3
1.1 Đặc điểm hoạt động và tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 3
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển 3
1.1.2 Đặc điểm hoạt động kinh doanh 6
1.1.3 Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán 8
1.1.4 Đặc điểm tổ chức bộ sổ kế toán 9
1.1.5 Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh 9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ KINH DOANH ĐỊA ỐC HÒA BÌNH 12
2.1. Khái quát thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 12
2.2.1 Tổ chức phân tích 12
2.2.2 Phương pháp phân tích 12
2.2.3 Nội dung phân tích 12
2.2 Thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 13
2.2.1 Đánh giá khái quát tình hình tài chính 13
2.2.2. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán 18
2.2.3.Phân tích kết báo cáo quả kinh doanh 24
2.2.4 Phân tích hiệu quả kinh doanh 26
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ KINH DOANH ĐỊA ỐC HÒA BÌNH VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN 28
3.1. Đánh giá thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 28
3.1.1.Về tổ chức phân tích. 28
3.1.2.Về nội dung phân tích 29
3.1.3.Về phương pháp phân tích 32
3.2. Giải pháp hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 33
3.2.1 Hoàn thiện phương pháp phân tích 33
3.2.2. Hoàn thiện nội dung phân tích 38
3.2.3 Hoàn thiện chỉ tiêu phân tích 39
3.2.4. Hoàn thiện tổ chức phân tích báo cáo tài chính 52
3.3. Điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 55
3.3.1.Về phía Nhà nước 55
3.3.2.Về phía Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh địa ốc Hoà Bình 57
KẾT LUẬN 59
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


);
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân
0,0459
0,0120
0,0339
Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
0.041
0,0112
0,0298
Bảng 2.8. Phân tích các chỉ tiêu phản ánh suất sinh lời năm 2008
Qua bảng phân tích trên ta thấy tất cả các hệ số sinh lời trong năm 2008 đều giảm mạnh so với năm 2007 cụ thể, trong năm 2007, 1 đồng doanh thu thuần chỉ tạo ra 0.0595 đồng lợi nhuận sau thuế, nhưng cuối năm 2008, hệ số này đã giảm xuống và đạt 0,0182 đồng lợi nhuận sau thuế trong 1 đồng doanh thu. Tương tự, năm 2007, chỉ tiêu ROA bằng 0,0459 tức là 1 đồng tài sản tạo ra 0,0459 đồng lợi nhuận sau thuế, thì trong năm 2008 lại giảm còn 0,012.đồng. Và 1 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 0,041 đồng lợi nhuận sau thuế trong năm 2008 cũng giảm so với năm 2007 .
Khi tất cả các hệ số sinh lời đều giảm là một dấu hiệu đáng lo ngại đối với hoạt động của công ty. Ngoài ra, với đặc điểm là Công ty cổ phần, Công ty còn tiến hành phân tích chỉ tiêu “Lợi nhuận cho mỗi cổ phiếu thường (Earnings per common share – EPS)”.Tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hòa Bình số lượng cổ phiếu phát hành không thay đổi, không có cổ phiếu ưu đãi nên chỉ tiêu “Lợi nhuận cho mỗi cổ phiếu thường” được tính theo công thức (2.1) sau:
Lợi nhuận cho
mỗi cố phiếu thường (EPS)
=
Lợi nhuận sau thuế
Số cổ phiếu phát hành
EPS
=
11.962.184.257
= 848 đồng
14.112.319
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu bằng 848.đồng, nghĩa là, trong năm 2008, mỗi cổ phiếu thường của Công ty tạo ra được một mức lợi nhuận là 848 đồng. Đây là mức lợi nhuận tương đối cao.
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2008
Thực hiện so với kế hoạch
Kế hoạch
Thực hiện
Sô tiền
%
Doanh thu
Đồng
800.000.000.000
675.576.330.573
-142.423.669.427
82,20
Lợi nhuận
Đồng
54.000.000.000
51.194.396.552
- 2.805.603.448
94,80
Bảng 2.7. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu và
lợi nhuận năm 2008
Qua bảng 2.7 các nhà phân tích đã lập bảng so sánh các tài liệu kế hoạch về doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên kết quả này là do quyền sử dụng đất của dự án toà nhà Hoà Bình Tower tại lô C17-1-1 được trình bày theo giá gốc mà chưa được dự phòng do giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc khoảng 20,33 tỷ đồng VNĐ. Theo đó giá trị Hàng tồn kho hàng hoá bất động sản, phản ánh trên bảng cân đối kế toán hợp nhất ngày 31/12/2008 và lợi nhuận trước thuế thể hiện trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất cho năm 2008 tăng lên khoảng 20,33 tỷ.
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ KINH DOANH ĐỊA ỐC HÒA BÌNH VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
3.1. Đánh giá thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình
3.1.1.Về tổ chức phân tích.
Hiện nay, tại Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hòa Bình công tác phân tích báo cáo tài chính đã được triển khai ở một số chỉ tiêu cơ bản nên chưa thấy được tầm quan trọng của việc phân tích. Điều này thể hiện rõ qua các bước của quá trình phân tích tại Công ty đang thực hiện như sau:
Về công tác chuẩn bị phân tích: Người phân tích cần lập kế hoạch phân tích tức là xác định trước nội dung, phạm vi, thời gian và cách thức phân tích. Tại Công ty, công tác lập kế hoạch trong khâu chuẩn bị gần như là không có, nếu có thì cũng rất đơn giản, chủ yếu trên cơ sở các năm trước thì năm này tiếp tục thực hiện. Thời gian phân tích được tiến hành sau khi lập báo cáo tài chính. Nội dung phân tích chủ yếu là tính toán các chỉ tiêu được quy định trên thuyết minh báo cáo tài chính trên thuyết minh báo cáo tài chính phải trình bày các chỉ tiêu đánh giá về: Bố trí cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn; Khả năng thanh toán; Tỷ suất lợi nhuận. Bây giờ dù đã có những sửa đổi và có những thông tin này không cần trình bày trên báo cáo tài chính nữa nhưng Công ty vẫn tiến hành phân tích và đưa các thông tin này vào báo cáo thường niên. Ngoài ra, Công ty còn tiến hành phân tích các chỉ tiêu liên quan đến cổ phiếu để phục vụ cho yêu cầu hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Bước tiến hành phân tích: Đây là giai đoạn triển khai, thực hiện các công việc đã ghi trong kế hoạch, thực chất đây là sự kết hợp hài hòa giữa con người, phương pháp phân tích, tài liệu sử dụng để đạt được các thông tin theo mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, do công tác phân tích, bước lập kế hoạch cũng chưa được chú trọng, nên ở bước tiến hành, tại công ty chỉ đơn giản người phân tích là một kế toán viên kiêm nhiệm, căn cứ vào các số liệu trên báo cáo tài chính để tính toán ra các chỉ tiêu cần thiết và căn cứ vào kết quả tính toán đưa ra những nhận xét cơ bản.
Bước viết báo cáo tài chính: Đây là giai đoạn sau cùng của việc phân tích. Báo cáo phân tích là bảng tổng hợp những đánh giá cơ bản cùng những tài liệu chọn lọc để minh họa cho những kết luận rút ra từ quá trình phân tích, đồng thời thông qua báo cáo phải nêu rõ thực trạng hoạt động của doanh nghiệp và đề xuất các giải pháp khả thi về những vấn đề phân tích. Nhưng tại công ty, công tác phân tích mới chỉ dừng lại ở việc tính toán các chỉ tiêu cơ bản chứ chưa có cái nhìn sâu sắc về thực trạng tài chính. Do đó hiệu quả cung cấp thông tin là không cao. Và các thông tin này chủ yếu sử dụng cho Hội đồng quản trị, Ban giám đốc để đánh giá và tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm.
Như vậy, từ những nhận xét trên có thể thấy rằng công tác phân tích báo cáo tài chính tại công ty mặc dù đã được tiến hành nhưng chưa được quan tâm đúng mức, vẫn chưa có bộ phận chuyên thực hiện việc phân tích báo cáo tài chính riêng mà hiện nay chỉ tập trung hết vào một người, đó là nhân viên làm công tác kế toán Do đó, hiệu quả của việc phân tích là chưa cao, chưa phát huy hết sự hữu ích của công cụ phân tích báo cáo tài chính trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà quản trị trong Công ty.
3.1.2.Về nội dung phân tích
Hiện nay, nội dung phân tích báo cáo tài chính của công ty bao gồm nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn; nhóm các chỉ tiêu phản ánh tình hình và khả năng thanh toán, nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh.
Chỉ tiêu này đã được tính dưới góc độ tổng các khoản phải thu, tổng các khoản phải trả cũng như đối với từng khoản phải thu, phải trả. Việc lập bảng phân tích 2.3 và 2.4 tạo điều kiện cho người sử dụng dễ dàng nắm được thông tin về công nợ của Công ty. Công ty lập kế hoạch hàng năm đối với chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận nên khi tiến hành phân tích, Công ty không chỉ so sánh với kết quả thực hiện năm trước mà còn so sánh với kế hoạch đề ra. Nhờ đó, đã giúp công ty nhìn nhận cụ thể hơn về kết quả hoạt động của mình.
Tuy nhiên, do chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức nên công tác phân tích báo cáo tài chính nói chung và nội dung phân tích báo cáo tài chính nói riêng tại công ty vẫn còn nhiều hạn chế. Vì chỉ mới dừng lại ở việc phân tích nhóm các chỉ tiêu như trên đã được trình bày nên nội dung phân tích còn quá đơn giản, chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa làm toát lên được toàn cảnh bức tranh tài chính của Công ty. Có thể xem xét cụ thể vấn đề này dưới các khía cạnh sau:
Quá trình phân tích mới chỉ dừng lại ở việc so sánh đơn giản giữa kết quả cuối năm và đầu năm, trên cơ sở đó đưa ra các nhận xét về xu hướng biến động của chỉ tiêu. Tuy nhiên, việc đưa ra nhận xét sự thay đổi của các chỉ tiêu trên cơ sở hai số liệu đầu năm và cuối năm mới chỉ phản ánh được biểu hiện bên ngoài của sự biến động, chưa đánh giá được nguyên nhân cốt lõi của vấn đề. Những nhận xét này chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn.Về lâu dài, để có những nhận định vững vàng hơn về sự thay đổi này cần so sánh với ít nhất là ba dãy số liệu của chuỗi thời gian ít nhất là ba năm.
Các chỉ tiêu phân tích mới dừng lại ở việc tính toán những con số mà không đưa ra nguyên nhân tạo ra con số đó vì vậy họ mới chỉ đưa ra những nhận định, đánh giá chung chung mà chưa lý giải nguyên nhân cũng như các giải pháp có tính khả thi để khắc phục, do đó không thể cung cấp những thông tin có chất lượng phục vụ cho nhà quản trị điều hành hoạt động của Công ty.
Nguồn số liệu dùng để phân tích còn rất hạn chế, vì vậy, thiếu thông tin sử dụng trong việc phân tích.Hiện nay, việc phân tích báo cáo tài chính của Công ty chủ yếu chỉ dựa vào số liệu trên bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và Thuyết minh báo cáo tài chính. Hơn nữa, các số liệu cung cấp thường nặng về tính thống kê, tổng hợp mà chưa nêu được rõ ràng ý nghĩa cũng như bản chất của các thông tin tài chính.
Số lượng các chỉ tiêu phân tích chưa được sử dụng một cách khoa học, còn thiếu nhiều, số liệu trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ hầu như không được sử dụng trong quá trình phân tích. Tên gọi của các chỉ tiêu chưa phù hợp , ví như nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Mà hiệu quả kinh doanh và kết quả kinh doanh dù có quan hệ mật thiết với nhau nhưng lại là hai phạm trù khác nhau.
Những tồn tại từ công tác tổ chức, phương pháp đến nội dung phân tích như đã trình bày trên đây là do nguyên nhân Ban giám đốc Công ty có quan tâm đến ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status