Đọc hiểu bài thơ Tự Tình II - Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tự tình (bài.. - Văn mẫu 4568

   Ông Hồ Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà từng sống ở Thăng Long và bà từng dựng ngôi Cổ Nguyệt đường để đón tiếp, giao du với khách văn chương. Bà giao du rộng rãi, đường tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở.

2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Chùm thơ bộc lộ tâm sự của một người phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nhưng luôn gặp những điều bất hạnh. Hiện lên trong chùm thơ là người phụ nữ đằm thắm, cá tính mãnh liệt nhưng không thiếu sự dịu dàng, yếu đuối của nữ tính.

3. Trong khi đọc, chú ý cách gieo vần theo niêm luật của thơ thất ngôn bát cú.

II - Kiến thức cơ bản

   Những nhà thơ có cá tính mạnh mẽ đều là những người tinh tế trước bước chuyển của thời gian. Thời gian vô thuỷ, vô chung, đời người thì hữu hạn. Hoặc giả thời gian nếu có tuần hoàn thì tuổi trẻ vẫn qua đi. Thế đối nghịch giữa thời gian với cuộc đời, đặc biệt là với tuổi trẻ và tình yêu khơi nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ mà tâm trạng của nhân vật trữ tình thường là buồn đau da diết. Bài Tự tình của Hồ Xuân Hương là một bài thơ như thế.

   Đường tình duyên vốn đã chẳng êm xuôi, lại thêm tính tình Xuân Hương khẳng khái có chút ngang tàng, tất cả khiến người nữ sĩ không thể gò được mình vào cái khung vừa chật hẹp, vừa hà khắc của thời phong kiến. Sự bẽ bàng và chua chát xuất phát từ đây. Cuộc đời hai lần phải đi làm lẽ, với người phụ nữ thời phong kiến, như vậy cũng có thể xem là đã “chẳng còn gì”. Nhưng còn buồn hơn, ở Hồ Xuân Hương, sự gắng gượng ấy lại còn chẳng đến đâu. Xem thơ Hồ Xuân Hương thì dễ thấy, những bài thơ dự đoán là được làm vào giai đoạn sau này có nhiều bài tỏ ra chán nản (trong đó có bài Tự tình này). Thơ ít thấy cái khẩu khí mạnh mẽ và quyết liệt. Giọng thơ trầm, sâu lắng và nhiều “tâm sự” hơn.

   Như đã nói, bài Tự tình này khai thác thế đối nghịch giữa thời gian với tuổi trẻ và tình yêu. Bài thơ là mạch cảm xúc của nhiều niềm tâm sự. Niềm tâm sự ấy đến vào lúc cũng thật là tinh tế.

   Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

   Trơ cái hồng nhan với nước non.

   Câu thơ nói đến thời gian nhưng cũng lại gợi được cái không gian rợn ngợp. Thời gian, không gian đối lập với con người nhỏ bé, cô đơn. Đêm khuya, vắng lặng và tĩnh mịch. Đó là thời điểm con người cảm giác rõ nhất sự cô đơn. Một mình đối diện với đêm khuya, khi tất cả mọi âm thanh của cuộc sống đã lắng lại, đã lùi lại cả phía sau, người phụ nữ đa đoạn ấy càng thấm thía nỗi buồn. Cái âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh không làm cho đêm bớt tĩnh lặng, mà ngược lại nó làm cho đêm sâu hơn, vắng hơn và lòng người buồn hơn. Tiếng trống canh dồn là nhắc nhở thời gian đang bước từng bước lạnh lùng. Nhà thơ đã lấy động để mà tả tĩnh – một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca trung đại. Văng vẳng vừa gợi âm thanh của tiếng trống điểm canh, vừa gợi sự quạnh quẽ của đêm khuya. Một mình đối diện với đêm khuya vắng lặng đến cô tịch vốn đã dễ gợi niềm tâm sự. ở đây, còn thêm sự cô đơn thì nỗi buồn hẳn càng dễ đến hơn. Câu thơ đầu có chỗ hiện còn nhiều cách hiểu. Đó là cụm từ trống canh dồn. Thiết nghĩ, trống canh dồn không thể hiểu là sự gấp gáp, dồn dập, liên hồi của tiếng trống. Hiểu như vậy có phần gượng ép. Đêm khuya không ai đánh trống dồn dập, liên hồi. Vả lại trống điểm canh lại càng không đánh dồn dập được. Câu thơ chưa nhắc đến chủ thể nhưng thực tế đã là một câu để gợi tình. Một mình đối diện với đêm khuya, nhân vật trữ tình ngán ngẩm bởi thời gian trôi nhanh mà tình duyên thì vẫn còn dang dở. Thời gian không chỉ nhanh từng ngày, từng tháng, từng năm mà còn nhanh ngay cả mỗi canh giờ. Bởi thế mà ngay cả lúc, thời gian tưởng như có bước đi chậm nhất thì nó vẫn cứ trôi vội vã. Vậy là cụm từ trống canh dồncó thể hiểu : thời gian trôi nhanh nên cảm giác các canh ngắn lại. Cũng vì thế mà tiếng trống điểm canh cũng dồn lại gần nhau hơn.

   Giữa cái nền không gian rợn ngợp cô đơn ấy hiện lên một hình ảnh thật bẽ bàng:

   Trơ cái hồng nhan với nước non

   Động từ trơ được đẩy lên đầu câu đứng ngay trước chủ thể “hồng nhan”. Từ hồng nhan (sắc mặt hồng) chỉ dung nhan người phụ nữ, cũng là khái niệm chỉ phụ nữ nói chung thiên về ngợi khen vẻ đẹp. Thế mà lại “trơ cái hồng nhan”. Chủ thể đã mất hoàn toàn cảm giác, trơ ra, chai lì đi trước cuộc đời. Đã vậy từ hồng nhan lại nằm ngay sau từ cái vốn không đi liền với danh từ chỉ người. Câu thơ mỉa mai, rẻ rúng đến xót xa. Nhịp thơ chắc khoẻ như gân lên ở đầu câu nhưng lại chùng xuống ở cuối câu như muốn ngân thêm mãi cảm giác bẽ bàng.

   Câu thơ buồn, tình buồn, cảnh cũng buồn. Vì thế cũng là hợp lôgíc khi ở hai câu thực, nhân vật trữ tình tìm đến rượu:

   Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

   Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

   Chủ thể trữ tình mượn rượu để tìm quên nhưng say rồi lại tỉnh. Tỉnh là tỉnh rượu nhưng cũng lại là tỉnh trước hiện thực bẽ bàng. Cụm từ say lại tỉnh gợi cái vòng lẩn quẩn: buồn – mượn rượu để tìm quên – nhưng tỉnh rượu, nỗi buồn lại nhân lên gấp bội phần. Hương tình sao cũng giống như hương rượu, khiến ta say. Và nếu như sau cơn say rượu, ta mệt mỏi rã rời thì sau một thoáng hương tình rất có thể ta phải đau đớn, xót xa.

   Câu thơ thứ tư mới thực là một câu tả thực. Câu thơ gợi ra nguyên nhân của sự bẽ bàng:

   Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

   Xưa nay, vầng trăng tròn đầy vốn tượng trưng cho sự viên mãn của hạnh phúc lứa đôi. Nhưng ở câu thơ này, nó là một sự khao khát. Niềm khát khao của bất kì một người phụ nữ nào trên thế gian này, khát khao hạnh phúc, khát khao thoát khỏi nỗi cô độc, lẻ loi. Nhiều người vẫn dựa vào những câu chuyện về tình duyên của Xuân Hương để lí giải nghĩa của câu thơ này. Thế nhưng, đó chỉ là sự suy luận với mong mỏi tìm hiểu cặn kẽ cụ thể một hình ảnh thơ. Không thể nói rằng cả hai lần làm lẽ, Hồ Xuân Hương đều không hạnh phúc. Mặc dù có thể là gắng gượng nhưng phải làm lẽ ở thời phong kiến cũng không có gì là ghê gớm. Xuân Hương có buồn nhưng không kêu ca. Nàng chỉ tiếc hạnh phúc lứa đôi đã có những lúc tròn đầy sao giờ “xế bóng” mà lại không viên mãn. Hạnh phúc sao không trọn vẹn. Câu thơ không đơn giản thế, không chỉ là nỗi buồn của riêng Xuân Hương vì chuyện hạnh phúc lứa đôi dang dở. Ai dám khẳng định rằng tất cả mọi người phụ nữ trong mọi thời đại đều chắc chắn hạnh phúc, không cảm thấy cô đơn khi có đủ cặp, đủ đôi. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn chung. Đó là nỗi khát khao một hạnh phúc vẹn tròn. Nhất là những người phụ nữ không may mắn trong chuyện tình duyên, tuổi xuân cứ lạnh lùng trôi đi mà hạnh phúc tìm hoài không thấy.

   Sự khác biệt lớn nhất thể hiện bản lĩnh của Hồ Xuân Hương là ở nữ sĩ, phẫn uất bao giờ cũng đi liền với phản kháng. Hai câu thơ luận chính là hai câu nói lên cái bản lĩnh ấy của Hồ Xuân Hương :

   Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

   Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

   Hai câu thơ đăng đối và chắc khoẻ được tạo nên từ nghệ thuật đảo ngữ và luật đối quy định trong câu luận. Một nhỏ bé và yếu ớt (đám rêu). Một là vật vô tri (đá). Nhưng thiên nhiên lại chở cái phẫn uất của lòng người nên dù yếu ớt mà vẫn tràn đầy sức sống (từng đám rêu xiên ngang mặt đất). Dù vô tri, đá vẫn cựa động, quẫy đạp, phá phách (mấy hòn đá đâm toạc chân mây). Bản lĩnh của Hồ Xuân Hương không chỉ tìm thấy trong ý nghĩa của sự miêu tả. Nó nằm ngay ở cách dùng từ. Ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương mạnh mẽ, bướng bỉnh và phải là độc đáo: xiên ngang, đâm toạc. Chúng ta gặp nhiều cách dùng từ này trong thơ của Xuân Hương : xoạc cẳng, phường lòi tói, chín mõm mòm… Đó là phong cách ngôn ngữ riêng của Bà chúa thơ Nôm Xuân Hương.

   Hai câu thơ tả cảnh nhưng cũng là để thể hiện cá tính Hồ Xuân Hương – con người không dễ dàng bằng lòng hoàn cảnh. Nhưng nếu chỉ có vậy, thơ Xuân Hương sẽ khô khan và gượng ép. Bởi thế hai câu thơ cuối là hai câu nói thực lòng người phụ nữ:

   Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

   Mảnh tình san sẻ tí con con!

   Dù gắng gượng, bài thơ vẫn kết thúc trong tâm trạng chán chường. Từ ngán nỗi nói lên điều đó. Xuân Hương ngán ngẩm nỗi đời éo le, cũng là ngán ngẩm số phận mình bạc bẽo. Tạo hoá cho bốn mùa xoay vần trở lại nhưng tuổi xuân mãi mãi qua đi. Mùa xuân của đất trời mỗi năm một mới. Nhưng mùa xuân của cuộc đời chỉ có một chiều tàn úa. Hai từ lại trong câu này có nghĩa khác nhau. Một từ là “thêm lần nữa”, một từ là “trở lại”. Nhịp câu thơ kéo dài như nỗi chán chường, sự cô đơn bất tận của nhân vật trữ tình.

   Câu thơ cuối là sự sáng tạo tuyệt vời của nghệ thuật tăng tiến:

   Mảnh tình san sẻ tí con con

   Mảnh tình đã ít đã nhỏ, lại còn san sẻ nên thành ra chỉ còn lại tí con con, đã tí lại con con, hầu như chẳng còn gì. Câu thơ là tâm sự của người đi làm lẽ:

   Tối tối chị giữ mất chồng

   Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò

                                               (Ca dao)

   Cảnh chồng chung vợ chạ thực sự là một dấu ấn khắc sâu vào cuộc đời bất hạnh, chán chường của người phụ nữ mà trong hoàn cảnh nào cũng không nguôi khát vọng yêu thương.

   Trong thơ ca trung đại, cái Tôi cá nhân giữ một vị trí rất khiêm tốn, nó nhỏ bé và yếu ớt nấp sau một cái ta đầy kiêu ngạo. Nhưng những người nghệ sĩ như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đều không chấp nhận thực tế ấy. Với tài năng, tình đời và bản lĩnh sáng tạo của mình, họ đã dũng cảm đưa cái Tôi cá nhân với những tâm trạng rất riêng, rất người, rất đời thường vào những trang thơ, trang văn. Và đó đều là cái tình đời, tình người của những người nghệ sĩ có tấm lòng nhân đạo và tư tưởng nhân văn sâu sắc.

   Chùm 3 bài Tự tình của Hồ Xuân Hương, mỗi bài có một vẻ riêng. Dù sao cũng phải nói rằng ở bài này thấy ít sự ngao ngán hơn. Thơ vẫn có những lúc phá phách nhưng không phải theo kiểu bất cần. Bài thơ nghiêng hơn về âm hưởng trữ tình. Nỗi buồn đong đầy nhưng vẫn lắng sâu, không hời hợt. Nhìn thẳng để viết thật về lòng mình, bài thơ không chỉ là tâm sự của Hồ Xuân Hương. Bài thơ còn mang ý nghĩa nhân văn cao cả.

III - liên hệ

   Đọc thơ Hồ Xuân Hương, nhà thơ Tế Hanh bình luận:

   Kính chào chị Hồ Xuân Hương,

   Ôi một tài thơ cỡ khác thường.

   “Xiên ngang mặt đất” câu thơ nhọn,

   “Dê cỏn buồn sừng” chữ hóc xương.

   Không chịu cam tâm làm phận gái,

   Chế giễu nam nhi cả một phường.

   “Bà chúa thơ Nôm” ai sánh kịp,

   Ra ngoài lề lối của văn chương.




Bình luận Chia sẻ Bình chọn: 3.4 trên 7 phiếu Bài tiếp theo Các bài liên quan: - Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tự tình (bài II)

Phân tích bài Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương I: MỞ BÀI Cách 1: Giới thiệu tác giả – dẫn dắt vào tác phẩm (VD: Có thể nói Hồ Xuân Hương là một trong hai nhà thơ nữ nổi tiếng nhất của nền thơ trung đại Việt Nam. Bà không chỉ chiếm giữ vị trí bà chúa thơ Nôm mà còn là một đỉnh cao của của trào lưu nhân đạo thời kì này. Hầu hết sáng tác của bà tập trung tái hiện số phận nhiều cay đắng đau khổ của người phụ nữ trong XHPK.

Nỗi lòng tác giả qua bài Tự tình 2 Tự tình ở số ít những bài thơ mà Hồ Xuân Hương bộc lộ trực tiếp “cái tôi” đầy xúc cảm và bản lĩnh của mình trước cuộc sống . Bài thơ mở đầu với một không gian: Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.

Phân tích bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương Bài thơ có hai phương diện kết hợp, vừa có nét đau buồn, chán nản lại vừa khao khát, mong đợi. Người phụ nữ ao ước một cuộc sống hạnh phúc, có tình yêu của người bình thường chứ không phải muốn trở thành một tấm gương an phận thủ thường mà Nho giáo xưa vẫn ra sức tuyên truyền.

Tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc của Hồ Xuân Hương trong bài thơ Bánh trôi nước và Tự tình II Sự sáng tạo táo bạo góp phần khẳng định vị thế rất đáng trân trọng của Hồ Xuân Hương trong làng thơ Nôm nói riêng và trong văn học trung đại nói chung.

Phân tích bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương là nhà thơ lớn của dân tộc. Tuy sáng tác của bà để lại không nhiều, chủ yếu là những bài thơ Nôm truyền tụng và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí, song bà đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn của văn học Việt Nam với một phong cách thơ vô cùng độc đáo.

Bình giảng bài thơ Tự Tình II (Hồ Xuân Hương) : Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn .... Mảnh tình san sẻ tí con con. Khát vọng của Hồ Xuân Hương về mưu cầu hạnh phúc lứa đôi cũng chính là khát vọng của muôn vàn phụ nữ: một khát vọng chính đáng

Tự tình - Hồ Xuân Hương Phân tích bài thơ Tự tình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái “oán", cái “hận”, cái “ngang bướng” của một tâm trạng; một cá tính rất Xuân Hương.

Bài tham khảo: Tự tình 3 - Tranh tố nữ. Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình? Chị cũng xinh mà em cũng xinh. Đôi lứa như in tờ giấy trắng, Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.

Bình giảng bài Tự tình của Hồ Xuân Hương Phân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương - Lớp 11 Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Phân tích hai câu luận và hai câu kết bài Tự Tình (II) của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng biệp pháp đảo ngữ nhằm nhấn mạnh hành động dữ dội trong cái nỗi bi phẫn sâu xa của thân phận làm lẽ của người phụ nữ.

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình (II) của Hồ Xuân Hương. Bốn câu thơ đã thể hiện cách dùng từ vô cùng sáng tạo và bất ngờ của thi sĩ Hồ Xuân Hương

Phân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương (Bài 2) Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại.

Phân tích bài thơ Tự tình - 2 của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng chỉ gặp toàn dang dở, bất hạnh. Đó còn là sự bất hạnh của một mơ ước không thành.


Báo lỗi - Góp ý >> Học trực tuyến Lớp 11 trên Tuyensinh247.com. Cam kết giúp học sinh lớp 11 học tốt, hoàn trả học phí nếu học không hiệu quả.

Các bài khác cùng chuyên mục

Viết đoạn văn nghị luận về ý nghĩa của việc tìm ra niềm đam mê thực sự của chính mình trong cuộc sống. Viết đoạn văn nghị luận về sự thấu cảm Viết đoạn văn nghị luận về sự vô cảm Viết đoạn văn nghị luận về sự cao thượng Viết đoạn văn nghị luận về mục tiêu

TẢI APP ĐỂ XEM OFFLINE Tham khảo thêm Tổng hợp các đoạn văn nghị luận về hiện tượng đời sống Tổng hợp các đoạn văn nghị luận về tư tưởng đạo lí Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Đám tang lão Gô-ri-ô Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tâm tư trong tù Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Tiếng hát đi đày Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Thơ duyên Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Đây mùa thu tới Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Thề non nước Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Rô-mê-ô và Giu-li-ét Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Đời thừa

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status