Tài liệu Tiểu luận - Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc - Pdf 10

- - -    - - -

Tiểu luận:
Cơ hội và thách thức của các
doanh nghiệp Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Phần một. Cơ hội và thách thức của cách doanh nghiệp Việt Nam
trước hiệp định thương mại Việt - Mỹ
I. Sự ra đời của hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ
II. Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trước HĐTM Việt - Mỹ
III. Những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Phần hai
I. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
AFTA
II. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi gia nhập
AFTA
1. Thách thức
2. Cơ hội
Kết luận 12
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá,khu vực hoá nền kinh
tế.Tiến trình toàn cầu hoá mở ra cho các quốc gia cả những quốc gia phát
triển và đang phát triển những cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội.,Hội nhập quốc tế vừa là cơ hội đồng thời cũng là thách thức
đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong công cuộc tìm được chỗ đứng của
mình trên thị trường quốc tế.Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn
thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới.Một trong
những yếu kém hiện nay của toàn nền kinh tế nói chung và của các doanh
nghiệp nói riêng đó là sức cạnh tranh trên thị trường cả trong nước lẫn nước

mại,bằng việc cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các biện pháp ngăn chặn phi
thuế quan như quota(hạn nghạch),đảm bảo quyền buôn bán cho các doanh
nghiệp nước ngoài và trong nước .Ngoài ra còn có những can kết về quyền
sở hữu trí tuệ phát triển quan hệ đầu tư.
II/Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trước HĐTM Việt-Mỹ
1/ HĐTM Việt-Mỹ mở cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu hàng hoá sang Mỹ một thị trường mạnh nhất thế giới với hơn 245 triệu
người.Hàng hoá của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn do mức
thuế suất chỉ còn trên 3%,trong khi trước kia phải từ 40% đến 80%.Các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ xuất khẩu sang Mỹ những mặt hàng mà chúng ta
có lợi thế như dầu thô, dệt may, giày dép, mặt hàng nông hải sản.
Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ là rất lớn.Năm 1999 giá trị xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ đạt 601 triệu USD/năm,thấp hơn nhiều
so với các nước trong khu vực mà Mỹ đã áp đặt quy chế quan hệ bình
thườngvà là thành viên của WTO.Kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Mỹ chỉ bằng 1/35 của Malaixia và bằng 1/23 của Thái Lan (do một lượng
hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải qua nước thứ ba, chủ yếu là
Singapore nên số liệu của Việt Nam và Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam và
Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ là khá lớn.Khi hiệp định
thương mại được thực hiện, do giảm hàng hoá qua trung gian nên xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ sẽ có cơ hội tăng mạnh hơn.Có ý kiến cho rằng năm
1999 ”Giá trị kim nghạch nhập khẩu của Mỹ là 1227 tỷ USD, do đó dù Việt
Nam có sang Mỹ tới 1 tỷ USD thì cũng như muối bỏ bể ”). Còn nếu xét về
cơ cấu xuấ nhập khẩu sang thị trường Mỹ trong tổng xuất nhập khẩu cũng
rất nhỏ bé.Trong suốt giai đoạn 1994-1999, xuất khẩu sang thị trường chỉ
đạt 2,4% tổng giá trị kim nghạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó tỉ
lệ này của Thái Lan là 17,4% và 10,3% và Malaixia là 19,4% và 11,9% (So
với các thị trường có mức thu nhập và tiêu dùnh bình quân đầu người tương
đương, hiện nay thị trường Mỹ chỉ chiếm 4,8% giá trị kim nghạch xuất khẩu
của Việt Nam so với các nước Châu Âu là 24% và Nhật Bản là 28,7%).

hàng hoá của Mỹ sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam với việc bãi bỏ hạn
ngạch và giảm thuế sẽ đặt các doanh nghiệp Việt Nam ở trong một điều kiện
cạnh tranh gay gắt hơn trước đây.Đồng thời các lĩnh vực hoạt động tài chính
,ngân hàng bảo hiểm ,viễn thông, pháp lý, giáo dục,y tế sẽ chiếm lĩnh thị
trường Việt Nam làm cho các doanh nghiệp kinh doanh trong những ngành
này của Việt Nam sẽ gặp phải những đối thủ cạnh tranh hết sức gay gắt vì
những lợi thế hơn hẳn của họ .Nếu chúng ta không có những chuẩn bị ngay
từ bây giờ thì người tiêu dùng Việt Nam chỉ hướng tới những dịch vụ tiện
lợi hơn của các nhà đầu tư Mỹ.
4/ Các doanh nghiệp Việt Nam, những người trực tiếp làm ăn với Mỹ
lại chưa thông hiểu luật lệ cung cách kinh doanh của người Mỹ.Chính điều
này chẳng những có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi
khi còn bị thiệt thòi vì những lý do không đáng có. Bên cạnh đó ,với trình độ
quản lý còn yếu kém, lại chưa có kinh nghiệm làm ăn theo cơ chế thị trường
cùng với trình độ công nghệ còn lạc hậu, trình độ chuyên môn của người lao
động còn chưa cao.Tất cả những điều đó làm cho sản phẩm của chúng ta còn
kém về chất lượng, xấu về hình thức khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn
hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước Nam Mỹ, từ Trung Quốc, từ các nước
Nics, các nước ASEAN. Đây chính là thách thức lớn cho các doanh nghiệp
Việt Nam khi HĐTM có hiệu lực.

PHẦN HAI
I. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - AFTA.
ASEAN (Asscociation of Southeast Asian Nation), hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á được thành lập từ năm 1976 với mục đích hợp tác toàn
diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị, khoa học, xã hội. Đến nay,
ASEAN đã phát triển lớn mạnh với 10 thành: Brunei, Indonesia, Malaysia,
Phillipin, Singapore, Thái lan, Việt Nam, Campuchia, Lào và Mianmar. Tuy
vậy là một khu vực kinh tế phát triển vào loại năng động nhất thế giới, vấn

Quan trọng hơn nữa khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa
Việt Nam và các nước ASEAN (về thu nhập bình quân trên đầu người, dự
trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ ) cho thấy sự
cách biệt quá lớn bất lợi cho Việt Nam cũng là mối lo ngại cho quá trình hội
nhập này. Trình độ công nghệ sản xuất hiện nay ở ta, đặc biệt trong các
ngành chủ chốt như công nghiệp chế tạo, chế biến, còn ở mức yếu kém thì
liệu có đủ sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường hay chỉ là nơi tiêu thụ hàng
hoá của các nước ASEAN thậm chí nhiều doanh nghiệp bị phá sản, thất
nghiệp theo đó tăng
Do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và phần lớn các
nước ASEAN tương đối giống nhau, vì vậy có thể gây ra sự cạnh tranh nội
bộ khu vực trong việc thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường và công nghệ (ở
mức độ khác nhau). Ngoài ra cò phải kể đến sự cạnh tranh của cả khối với
Trung Quốc trong cả thương mại và đầu tư nước ngoài.
Một trong những khó khăn và có lẽ đây là khó khăn lớn nhất mà Việt
Nam sẽ phải đương đầu trong quá trình hội nhập là nhân tố về con người do
trình độ, kể cả cán bộ quản lý kinh tế và các doanh nhân còn chưa đáp ứng
được với nhu cầu đặt ra của tình hình mới.
Nếu chỉ xét riêng về thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong
môi trường cạnh tranh thì phần lớn các doanh nghiệp còn rất non trẻ, thiếu
vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm.
Phần lớn các doanh nghiệp đều mới bước vào thương trường nên có nhiều
hạn chế, thể hiện ở các mặt như: kinh doanh trên diện mặt hàng rộng nhưng
thiếu chuyên ngành; mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; các doanh nghiệp
còn chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng khối các khách
hàng tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường và
khách hàng; Thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức
như thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm quảng cáo, tư vấn về thị trường,
môi trường đầu tư, tìm đối tác kinh doanh Ngoài ra, tác động không thuận
lợi đến các doanh nghiệp còn có những vấn đề về môi trường vĩ mô thiếu ổn

lợi cho Việt Nam tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc
đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi các
nước cắt giảm dần thuế thì hàng hoá Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn để xâm
nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Thứ hai, Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của
AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN,
Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và
ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
là từ các nước thuộc ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập
khẩu như máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất
công nghiệp khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ giảm
thuế nhập khẩu tới 5%. Như vậy, khi đó luồng hàng nhập khẩu sẽ được mở
rộng nhanh chóng. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT
bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng
cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố
kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu
sang ASEAN và các nước ngoài khu vực. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam
tăng dung lượng cung hàng hoá của mình trên thị trường và tham gia cạnh
tranh trên thị trường thế giới .
Thứ ba, tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam
có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng vào
xuất khẩu.
Thứ tư, có điều kiện để thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước
thừa vốn và đang có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm
lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Singapore,
Malaysia, Thái Lan
Thứ năm, có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở
các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Sử
dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực để khai thác khoáng
sản và xây dựng cơ sở hạ tầng

8.Bản tin nội bộ câu lạc bộ chất lượng
9.Đổi mới chất lượng sản phẩm trong thời kỳ đổi mới-Hoàng Mạnh
Tuấn
10.Chiến lược chất lượng và giá cả sản phẩm xuất khẩu của các loại
doanh nghiệp ngành công nghiệp nhẹ-Hà Nội năm 2000
11.Bộ tài chính:Thời báo tài chính Việt Nam số 30(9/3/2001)
12.Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN tài liệu Bộ KH-ĐT
class="bi x3 y0 w2 h5"


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status