Tài liệu LUẬN VĂN: Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam - Pdf 10


LUẬN VĂN: Khái niệm phủ định biện chứng trong
triết học Mác – LêNin với việc phân tích
đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Đặt vấn đề Dưới ngọn cờ lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh và Bác
Hồ vĩ đại nhân dân ta đã từng đánh bại 2 đế quốc hùng mạnh nhất thế giới: Đế quốc
Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng kinh tế đất nước, Đảng lại
lãnh đạo nhân dân đi hết từ thành công này đến thành công khác, mang lại sự đổi thay
từng ngày từng giờ cho nền kinh tế Việt Nam cũng như mang lại sức sống mới cho
nhân dân cả nước. Tuy rằng trước đây chúng ta đã duy trì kinh tế bao cấp, việc đó làm
trí tuệ nền kinh tế, thế nhưng Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt tình thế và đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào tình hình mới, thời đại mới, Đảng ta đã chủ trương
chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vào năm
1986 công cuộc đổi mới đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng sang phát
triển nhanh. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong những năm đầu giải phóng đất
nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới sau Mỹ và Thái Lan. Quan hệ thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở
rộng với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới ”. Nước

chất được sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng vật chất khác. Triết
học Mác sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng về chất, sự đấu tranh
của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới
ra đời. Triết học goị sự thay thế đó là sự phủ định. Phủ định bao gồm phủ định siêu
hình và phủ định biện chứng. Trái với phủ định siêu hình làm chấm dứt sự phát triển
thì phủ định biện chứng lại tạo ra những điều kiện tiền đề cho sự phát triển hay một
thay đổi nào đó làm cho sự vật phát triển. ở đây ta chỉ nghiên cứu về phủ định biện
chứng là hình thức giải quyết các mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định sự
phủ định mà mỗi sự thay thế chuyển hoá làm thành một mắt khâu trong sợi dây xích
phát triển của hiện thực và của tư duy. Từ những sự nhận định trên chủ nghĩa duy vật
đã đưa ra khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân vận động phủ định, tự
thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn
so với cái bị phủ định.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng.
- Tính khách quan:
Những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là do những nguyên nhân
bên ngoài đưa lại, xem sự vật và hiện tượng là những cái cô lập, tách rời nhau. Phương
pháp biện chứng khẳng định cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay trong bản thân sự
vật, nó là kết quả của những mâu thuẫn được giải quyết trong bản thân mỗi sự vật.
Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật có phương thức phủ
định biện chứng riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả hoạt động của
quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất trong đó mâu thuẫn mới phủ định mâu thuẫn
cũ, chất mới thay thế chất cũ và xuất phát từ xu hướng vận động của sự vật hiện tượng,
từ chính trong nội lực của sự vật.
Ví dụ: CNXH phủ định CNTB là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản,
khách quan, vốn có trong lòng xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của
lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất được
biểu hiện về hoc thuyết khoa khọc ngày càng phát triển là kết quả của quá trình phủ
định của những tri thức đúng đắn, sâu sắc đối với những tri thức sai lầm hoặc kém sâu
sắc, không đầy đủ.

Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản tích
cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác
vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại có lúc có nơi lại
phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên yêu cầu mới
của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho phủ hợp.
3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình để thấy nguyên
nhân, động lực của sự phát triển là gì.
Đối lập với quan điểm biện chứng, những người theo quan điểm siêu hình coi
phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự vận động, sự phát
triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình không thấy được tiền đề của sự
nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến kế thừa, thì họ lại hiểu kế thừa một cách
nguyên xi, không phê phán, không cải tiến cải tạo chúng hoặc lắp ghép các yếu tố của
cái cũ vào cái mới một cách đơn giản, máy móc.
Những người thuộc “Phái văn hoá vô sản” ở Nga đầu những năm cách mạng có
thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn hoá vô sản không có
liên quan gì với nền văn hoá trước họ chủ trương xây dựng lại từ đầu nền văn hoá mới
của giai cấp vô sản. Đây là quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự phát triển tăng
lên hay giảm đi thuần tuý về lương, không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính muôn vẽ
về chất bất biến trong toàn bộ quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển chỉ là thay đổi số
lượng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy
định mới về chất, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng
tròn khép kín.
Quan điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như là một quá
trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp.
Như vậy, việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ
để phân biệt một quan điểm biện chứng với một quan điểm siêu hình. Điều chủ yếu để
phân định hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn ra như thế nào.
trong quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.

I. Tính khách quan tất yếu của sự ra đời nền kinh tế hh có sự quản lý của
Nhà nước, phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù
hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự
cung tự cấp ở Việt Nam.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước
ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nổ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình của
các nước XHCN khác mô hình kinh tế kế hoạch hoá đã phát huy đựơc tính ưu việt của
nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá Nhà nước đã tập
trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để
ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phủ
định, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời
nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng việc tạo ra
chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức độ
cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sai giải phóng Miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng kinh tế đã
có nhiều thay đỏi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh
tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hh. Đó là thực tế
khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng
kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất
nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất
hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh
mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà
nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu
thông tiền tệ, giá cả bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông tiền tệ , giá
cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của nước ta đã lên

mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không
thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng
sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ được thực hiện cơ chế kinh
tế cũ cho dù chúng ta liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhưng hiệu
quả đạt được của nèn sản xuất xã hội rất thấp sản xuất không đáp ứng được nhu cầu
tiêu dùng xã hội tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn làm vào cả vón vay nước
ngoài.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển
nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó
không những không có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất mà nó
còn sản sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả
sản xuất.
Thứ ba, xét về những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có rất nhêìu
ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là thị trường mới
hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai. Thực tế thị trường đã hình thành và
phát triển được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng
bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vươn tới những vùng hẻo
lánh xa xôi và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta
phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao
động, thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ
can thiệp của Nhà nước còn tất thấp, chưa có sự quản lý chặt chẽ sự hệ thống và liên
kết các thị trường một cách đồng bộ theo pháp luật.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gủi hơn với
nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân
và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý
đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII Đảng khẳng định:
“Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành
có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ”.
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam.
Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết
XHCN, Nhà nước ta đã xây dựng mọt nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không chú
ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo
những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự
phát triển kinh tế. Do đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đừi mang tính khách
quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy
nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ
định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà là một sự chuyển đổi có tính chất
kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sửa đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những
mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau:
Trước hết đó là việc công nhấn sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác bên
cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành
phần kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tập thể, thành phần
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ những
mặt yếu kém của nền kinh tế cũ nhưng nền kinh tế mới đã biết kế thừa những yếu tố
tích cực của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn diện tốt hơn. Hai thành
phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vẫn giữ vai trò chủ đạo trong
đường lối phát triển kinh tế. Những bước đổi mới quan trọng của Đảng của Nhà nước
là việc thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác như kinh tế ư bản tư nhân.
Với sự chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản

thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết trên cơ
sở đưa ra các kế hoạch dài hạn.
Như vậy nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của
Nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò chủ thể kinh tế của các Công ty, Xí nghiệp,
các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của Nhà nước trong
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại vịn vào việc xây dựng và
phát triển vận động của các quy luật khách quan mà lại bỏ vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước cũng không đúng. ở Việt Nam hiện nay để xây dựng và phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tức
là một mặt phải tiếp tục củng cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước,
mặt khác phải không ngừng phát huy vai trò của Nhà nước, của Đảng, luôn bảo đảm
niềm tin của người lao động.
Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Việc bổ sung pháp luật
tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá, về giá, tỷ giá, tài chính, Ngân
hàng, lao động, tiền công, đất đai đang tạo môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
3. Những thành tựu của công cuộc đổi mới.
Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã đạt
giải quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như:
- Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao
động, chuyên môn sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao
động ngày càng chặt chẽ.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá sự
tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản
xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải
tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm
mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu
dùng kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển gắn sản xuất với thị trường.

phát triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc
doanh, tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên 39,9% năm 1992. Hợp tác xã Nông
nghiệp có phương hướng đổi mới rõ hơn kể từ đại hội Trung ương Vi vai trò tự chủ của
các hộ nông dân được khẳng định. Một số loại hình kinh tế hợp tác xã mới xuất hiện.
Luật đất đai chính thức giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho dân. Đã giúp
kinh tế hộ nông dân có thêm động lực phát triển mới. Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản
tư nhân phát triển đáng kể. Doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn đầu tư
thuộc nhiều hình thức sở hữu xuất hiện ngày càng nhiều.

Phần III: Xu hướng của nền kinh tế và một số giải pháp
Tại đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đối với tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN”
Định hướng XHCN là sự lựa chọn về mục tiêu, con đường tiến lên CNXH của
một quốc gia, dân tộc dựa trên những điều kiện khách quan cho phép và bao hàm một
nội dung kinh tế, chính trị xã hội rộng lớn (Liên hệ định hướng XHCN nhìn từ góc độ
triết học – tạp chí triết học số 4 (116) tháng 8-2000 trang 62)
Như vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có đặc điểm
mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, nền kinh tế ấy lấy các thành
phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế Nhà
nước làm chủ đạo, lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng
văn minh làm mục tiêu.
Muốn vậy nền kinh tế ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định

của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài
nguyên thiên nhiên của đất nước, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm quản lý của các nước khác.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi phù hợp với
yêu cầu của kinh tế thị trường.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp
Nhà nước.
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần coi đây là điều kiện
cơ sở, để thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức
mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế huy động những tiềm năng to lớn còn bị
phân tán của xã hội và phát triển sản xuất.
- Giữ vững ổn định chính trị hoàn thiện về hệ thống pháp luật đổi mới các chính
sách tài chính tiền tệ, giá cả.
Quá trình vận động của lịch sử nhân loại chỉ thấy mặt lý luận, mặt tư tưởng
khoa khọc hoặc đường lối hay mãi mãi chỉ là lý thuyết tồn tại trên giấy tờ nếu chúng
không được thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, thành cơ chế chính sách của Nhà
nước chỉ có bằng sức mạnh của hiện pháp, pháp luật chính sách của Nhà nước, định
hướng XHCN mới có thể đi vào cuộc sống nhờ đó các năng lực sản xuất hiện có trong
xã hội ta mới được giải phóng, được cởi bỏ những xiềng xích của chế độ cũ, những tập
quán, lề lối làm ăn, lạc hậu. Nhờ đó chúng ta mới lập được nền kinh tế thị trường đồng
bộ, mới có khả năng khai thác được các lợi thế cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế phát
triển với nhịp điệu nhanh mạnh và vững chắc.
Kết luận

Khi xem xét sự phát triển có một vấn đề được đặt ra là sự phát triển diễn ra theo
chiều hướng nào? Quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mác đã mang lại câu trả lời
cho vấn đề trên ở chỗ: Từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự
đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời. Sự ra đời đó là một mắt xích trong sợi dây xích phát triển và là kết quả
của sự phủ định cái cũ, cái lỗi thời trên cơ sở kế thừa, lặp lại nhưng không quay trở lại

2. Đặc điểm của phủ định biện chứng. 4
3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình để thấy nguyên nhân, động
lực của sự phát triển là gì. 6
II. Tính đặc thù của phủ định biện chứng với đổi mới trong lĩnh vực kinh tế xã
hội. 7
Phần II: Phép phủ định biện chứng đối với quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam 8
I. Tính khách quan tất yếu của sự ra đời nền kinh tế hh có sự quản lý của Nhà
nước, phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù
hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 8
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự cung tự
cấp ở Việt Nam. 8
2. Sự ra đời của nền kinh tế hh nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là
một xu hướng phát triển tất yếu khách quan 9
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam. 12
3. Những thành tựu của công cuộc đổi mới. 14
Phần III: Xu hướng của nền kinh tế và một số giải pháp 17
Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 21


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status