Thực trạng kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu của công ty Xunhasaba giai đoạn 2001 -2005 - Pdf 10

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chương I. Lý luận chung về kinh doanh sách báo xuất nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay.
I. Khái quát về kinh doanh Xuất bản phẩm (XBP) xuất nhập khẩu.
1. Định nghĩa về kinh doanh XBP xuất nhập khẩu.
Theo tiễn sĩ Nguyễn Thị Xuân Hương thì “kinh doanh là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ ,hoặc thực hiện
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”*. Đó là một quan điểm tương đối khái
quát về kinh doanh .
Sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển, số lượng hàng hóa trên thế giới nhiều hơn
bao giờ hết. Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ ấy là nhu cầu về trao đổi. Nhưng quá trình
trao đổi không còn đơn giản như giai đoạn đầu của nó. Dần dần quá trình ấy trở nên
khó khăn . Người ta bắt đầu đòi hỏi sự thuận lợi trong mua bán và để thuận tiện, cả
nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng đều chấp nhận sự xuất hiện của một lực lượng cầu
nối, trung gian giữa họ. Điều đó đã tạo ra khả năng tham gia và khai thác cơ hội trong
hoạt động trao đổi mua bán sản phẩm. Hay nói cách khác, nó đã tạo ra “lực lượng
trung gian” và trao cho lực lượng ấy những khả năng và cơ hội “kinh doanh”.
Lúc đầu nhà sản xuất bán hàng ( trao đổi) trực tiếp với người tiêu dùng:
Hàng hóa
Nhà sản xuất người tiêu dùng.
Hàng hóa,tiền, vật trao đổi...
Về sau nó có cách thực hiện thứ hai, hiệu quả hơn:
Hàng hóa hàng hóa
Nhà sản xuất (trung gian) người tiêu dùng.
T T’ { T’(tiền) >T.}
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Ở trường hợp thứ hai chính lực lượng trung gian đã giúp quá trình di chuyển và
trao đổi hàng hóa, giá trị giữa nhà sản xuất và nguời tiêu dùng được dễ dàng hơn.
Điều đó cho thấy tiền đề cho sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa

bức. Đây là tư tưởng cốt lõi của trường phái tư tưởng theo lý thuyết trong thương.
Xuất hiện từ thế kỉ 15, các nhà trọng thương lý luận rằng: sự giàu có của một quốc gia
biểu hiện ở số lượng vàng bạc mà quốc gia đó có được. Vì vậy chính phủ các nước
phải có chính sách xuất khẩu mạnh mẽ để thu vàng về và tránh (hoặc hạn chế thấp
nhất) hiện tượng nhập khẩu. Bằng mọi cách (trong đó có cả cách bắt các nước thuộc
địa tiêu thụ hàng hóa của mình), họ phải xuất khẩu. Và theo họ cán cân thương mại
quốc tế luôn có tổng bằng “không”.
Trên thực tế không một quốc gia nào có thể tự thỏa mãn toàn bộ hàng hóa cho nhu
cầu của người dân .Và không một quốc gian nào “duy trì” mãi được “sự cưỡng bức”
nhập khẩu với quốc gia khác. Bởi vậy đến thế kỉ 18, người ta đã tỏ vẻ nghi ngờ học
thuyết của của phái trọng thương.
Năm 1776, nhà kinh tế học người Anh-Adamsmith, đã cho ra đời cuốn sách “Sự
giàu có của mỗi quốc gia”. Theo ông sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số
hàng hóa và dịch vụ có sẵn hơn là sự phụ thuộc vào lượng vàng mà họ có.
Ông đã đặt ra câu hỏi là tại sao người dân của bất kì nước nào cứ phải mua hàng
hóa trong nước trong khi họ có thể mua chúng rẻ hơn ở nước ngoài. Ông đã phát triển
học thuyết lợi thế tuyệt đối và chỉ ra rằng mỗi nước khác nhau có thể sản xuất những
loại hàng hóa khác nhau có hiệu quả hơn thứ khác. Do vậy nguồn lực của mỗi nước
nên được sử dụng cho những ngành công nghiệp hiệu quả. Đó chính là tiền đề ra đời
của lý thuyết về “chuyên môn hóa”. Chuyên môn hóa có nhiều ưu điểm lớn.Nhờ nó
mà các nước có thể gia tăng hiệu quả sản xuất. Do tay nghề người lao động được nâng
cao, người lao động không phải mất thời gian đào tạo lại, họ dễ dàng phát huy khả
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
năng sáng kiến của mình, chính phủ các nước cũng dễ dàng khai thác triệt để hiệu quả
của các nguồn tài nguyên cà các nguồn lực khác vào sản xuất.
Lợi thế mà mỗi quốc gia có được, theo Adamsmith là những lợi thế về tự nhiên và
những lợi thế do nỗ lực mà có. Như vậy theo Ông thương mại quốc tế chỉ diễn ra ở
nhưng nước có lợi thế tuyệt đối ở những lĩnh vực cụ thể. Điều đó chỉ đúng một

nhân hoặc giữa một cá nhân với tổ chức...Quá trình trao đổi đó được sự can thiệp của
chính phủ đồng thời đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu.
Kinh doanh XBP xuất nhập khẩu là một phần của kinh doanh XBP nói chung.
Xét về quá trình đầu tư và mục đích thì về cơ bản hai lĩnh vực kinh doanh này không
khác nhau. Tuy nhiên việc kinh doanh XBP xuất nhập khẩu nó còn mang những đặc
trưng riêng biệt. Thể hiện ở đặc điểm, tính chất của XBP, thị trường, khách
hàng...cũng như các hình thức thanh toán.
2.1. Sự khác biệt của hàng hóa XBP xuất nhập khẩu.
Điều 4 chương I trong Luật xuất bản của nước ta (2005) đã chỉ rõ: “Xuất bản phẩm
là các tác phẩm, tài liệu về chính chị, kinh tế, văn hóa, xã hội, văn học, nghệ thuật
được xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài và
còn được thể hiện bằng hình ảnh âm thanh trên các vật liệu, phương tiện kĩ thuật khác
nhau”.
Như vậy trước hết XBP là một sản phẩm của trí tuệ tinh thần. Nó ra đời nhằm
đáp ứng những nhu cầu về văn hóa, tinh thần (học tập, nghiên cứu, tìm kiếm, giải
trí..). Đó là sự vật hóa (ngôn ngữ hóa) của kết quả lao động trí óc. Có thể nó là sản
phẩm của một hoặc nhiều người, được truyền tải bằng nhiều phương tiện khác
nhau( dù cùng một nội dung nhất định). Do vậy nhiều khi giá trị của nó không thể cân
đo đong đếm.
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
5
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Thứ hai, XBPcó giá trị sử dụng đặc biệt. Bởi đó là những giá trị tinh thần. Nó
được đúc kết từ sự am hiểu của các tác giả, từ tri thức của xã hội của nhân loại. Do
vậy nó có sức sống lâu bền. Bởi thế mà hình thức XBP nhiều khi không đồng nhất với
nội dung của nó. Khác với hàng hóa khác, qua thời gian hàng hóa giá trị sử dụng của
XBP không hề mất đi. Nó có giá trị to lớn trong sự phát triển và hoàn thiện trí tuệ
nhân cách của con người.
Thứ ba, giá trị và giá trị sử dụng của XBP nhiều khi không đồng nhất. Đó đôi

một hoặc những lĩnh vực nhất định.
+Ngoài ra XBP xuất nhập khẩu có giá rất cao khi đến tay ngay người mua. Chí phí
lưu thông, thuế xuất nhập khẩu là yếu tố chính khiến cho giá bán của nó chỉ phù hợp
với không nhiều đối tượng khách hàng.

2.2. Đặc trưng về thị trường XBP xuất nhập khẩu.
Người ta có thể đứng dưới nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận về thị trường nói
chung. Có thể xuất phát từ mục tiêu, đặc điểm hàng hóa, khả năng của doanh nghiệp
về thị trường.
Theo nhà kinh tế học McCathy thì “thị trường có thể được hiểu là các nhóm khách
hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự (giống nhau) và những người bán đưa ra
các sản phẩm khác nhau với các cách thức khác nhau để thỏa mãn nhu cầu đó”.
Chúng ta đã biết nhu cầu về XBP rất đa dạng và phong phú. Trong khi đó các
doanh nghiệp kinh doanh XBP chỉ có thể thỏa mãn được một phần nào đó mong muốn
của họ. Mặc dù các doanh nghiệp luôn tự cố gắng, nắm bắt nhu cầu để đa dạng hóa
hàng hóa của mình và mở rộng phương thức phục vụ nhưng họ lại gặp những trở ngại
về vấn đề địa lý, thời gian, giá cả...
Chúng ta biết rằng nhu cầuXBP là một dạng của nhu cầu tinh thần. Bởi vậy nó
hình thành và phát triển sau nhu cầu vật chất cấp thiết khác. Nên thị trường XBP cũng
được hình thành sau đó. Người ta cho rằng sự phát triển của thị trường XBP tỷ lệ
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
7
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
thuận với trình độ phát triển của xã hội nói chung. Một đất nước giàu có, thu nhập đầu
người cao chưa chắc đã tạo ra một thị trường XBP sôi động, phát triển. Các yếu tố về
văn hóa, kinh tế, chính trị ...cũng đóng góp ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát
triển của thị trường XBP nói chung.
Thị trường XBP luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật. Tính trong sạch
của thị trường XBP luôn được các cấp quản lý quan tâm. Bởi sức tuyên truyền và lây
lan của nội dung thông tinh trên sách báo là rất lớn. Nó có thể làm biến đổi nhận thức

thường cao hơn các vùng khác). Ở nước ta hiện nay thị trường tiêu thụ XBP ngoại văn
chỉ tập trung ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Còn thị trường XBP xuất khẩu thì
thị trường chính ở ba thị trường lớn là Mỹ, châu Á và châu Âu.
Có thể thấy phạm vi thị trường của kinh doanh XBP xuất nhập khẩu là rất lớn,
nhưng sự phân hóa lại rất sâu sắc và mức độ tập trung rất cao.
+ Xét theo tiêu thức về sản phẩm thì thị trường XBP xuất nhập khẩu thường được
đánh giá là có nhóm đối tượng khách hàng có trình độ cao hơn. Không những về trình
độ ngoại ngữ mà về sự am hiểu văn hóa, tri thức khoa học khác.. Bởi vậy các XBP
phục vụ đối tượng khách hàng này cũng có chất lượng nội dung cao hơn, phong phú
hơn và giá cũng cao hơn...
+ Xét về tiêu thức về khách hàng với nhu cầu của họ. Đây là tiêu thức giúp các
doanh nghiệp tìm ra được thị trường mục tiêu. Tuy nhiên khác với thị trường mục tiêu
trong kinh doanh XBP thông thường, trong kinh doanh XBP xuất nhập khẩu, thị
trường mục tiêu nó được xuất hiện trên cơ sở của những tác động rất khác nhau của
các yếu tố môi trường.
Trên thực tế người ta có thể dựa theo những tiêu thức khác nhau để nhận định. Do
vậy sự khác nhau đó chỉ là tương đối.
2.3. Khách hàng.
Người ta vẫn thường nhận dạng những nhóm khách hàng theo những đặc điểm
chung nhất của họ: độ tuổi, thu nhập, trình độ, nghề nghiệp, giới tính...Theo đó thì
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
9
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
khách hàng XBP xuất nhập khẩu và của XBP nói chung đều giống nhau ở tính chất cơ
bản.
Tuy nhiên hàng hóa XBP có xuất xứ từ nhiều quốc gia khác nhau. Nó mang những
nét khác nhau về nội dung, hình thức, giá cả..chính vì vậy khách hàng đến với nó còn
mang những đặc điểm khác.
Trước hết là về thu nhập. Khách hàng đến với XBP xuất nhập khẩu thường là
những người có thu nhập cao. Bởi giá bán của mặt hàng này thường cao hơn 2 đến 3

kinh doanh của doanh nghiệp.
Yếu tố văn hóa được hiểu bao trùm ở nhiều khía cạnh khác nhau. Với một quốc
gia, một dân tộc thì đó là những giá trị truyền thống, là trình độ, là thành tựu, là lối
sống, hệ tư tưởng...Tất cả các khía cạnh này nó tác động đến từng thành viên của xã
hội để tạo ra cái gọi là: sở thích xã hội, thị hiếu, tâm lý, xu hướng xã hội. Xem xét yếu
tố văn hóa, doanh nghiệp XBP sẽ định vị được thị trường về cái “gu” và tính chất sự
đòi hỏi của những thị trường nhất định.
Mặt khác ở mỗi đơn vị thành viên của xã hội, họ thể hiện những cái chung đó bằng
những cách riêng của mình để phù hợp với lứa tuổi, trình độ, giới tính, địa vị xã hội,
nghề nghiệp... của chính họ.
Các doanh nghiệp XBP phải đặc biệt quan tâm đến môi trường mang tính vi mô
này. Vì lĩnh vực kinh doanh này gần với “văn hóa” hơn hết. Văn hóa vi mô bao quanh
bản thân khách hàng, là sự cụ thể hóa của môi trường văn hóa vi mô. Chúng tác động
qua lại với nhau. Các doanh nghiệp XBP cần phải quan tâm đồng thời hai khía cạnh
này vì muốn xâm nhập và chiếm lĩnh khách hàng thì với họ đó là hai rào cản đầu tiên.
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
11
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Nghiên cứu các khía cạnh của yếu tố xã hội lại giúp các doanh nghiệp XBP định vị
được quy mô tính chất và mức độ của thị trường. Đó là các yếu tố về dân số, tình
trạng dân số, sự ổn định của mâu thuẫn xã hội...
Môi trường văn hoá, xã hội hiện nay có nhiều thuận lợi cho hoạt độngkinh doanh
XBP xuất nhập khẩu (dù ở phạm vi quốc gia hay quốc tế). Vì trình độ văn hóa của
Việt Nam và thế giới ngày càng cao nên nhu cầu về XBP ngày càng lớn, xã hội càng
phát triển thì nhu cầu về hưởng thụ tri thức, các giá trị tinh thần càng phong phú. Hơn
nữa sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia sẽ hạn chế nhiều những rào cản về văn hóa
xã hội tạo điều kiện cho việc phổ biến XBP của các doanh nghiệp.
3.2 Môi trường chính trị, pháp luật.
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị pháp luật chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ
hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu cuả bất kì doanh nghiệp nào. Sự ổn

định, đồng nghĩa với việc đời sống của người dân, mức sống của xã hội tăng lên. Điều
đó cho phép nhu cầu và khả năng thanh toán của họ cũng sẽ tăng lên và được đảm
bảo. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của doanh nghiệp XBP. Điều này càng
đúng đắn khi mà nhu cầu sách, báo ...là nhu cầu đến sau những nhu cầu vật chất
khác...
Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển (xét trên phạm vi quốc tế) thì xu hướng mở
rộng và hợp tác đầu tư, kinh doanh sẽ tăng lên, điều đó sẽ làm phong phú hơn, dễ dàng
hơn trong giao dịch, thanh toán, vận chuyển...
Yếu tố công nghệ kĩ thuật ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Với
doanh nghiệp XBP thì đây là điều kiện quyết định chất lượng của những trang in,
những ấn phẩm xuất bản. Đó là điều kiện dẫn tới việc có hay không sự biến đổi đến
khác biệt của XBP. Yếu tố công nghệ, kĩ thuật phải được xem xét rộng hơn, khi mà
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
13
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ảnh hưởng của nó không ngừng tăng lên. Rõ ràng công nghệ kĩ thuật hiện nay đã làm
cho các phương thức giao dịch trong kinh doanh, phương thức giao nhận vận chuyển
hàng hóa...dễ dàng, hiệu quả hơn rất nhiều.
II. Nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh sách, báo xuất nhập khẩu
ở Việt Nam hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định
ba vấn đề cơ bản là : kinh doanh mặt hàng nào? phân phối cho ai? Và kinh doanh
bằng phương thức gì?
Kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu, chính là việc tiêu thụ sách báo ngoại văn ở
thị trường trong nước và tiêu thụ sách báo trong nước trên thị trường quốc tế. Đó
không đơn thuần là việc bán các mặt hàng sách báo mà đó còn là một quá trình thực
hiện tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức kinh tế, kế hoạch nhằm nghiên cứu nắm
bắt nhu cầu, thị trường, hàng hóa...
1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là công việc rất quan trọng với các doanh nghiệp. Các doanh

+Về giá. Là xác định mức giá trên thị trường với mỗi loại sản phẩm ở những thời
điểm nhất định, xác định các yếu tố hình thành giá cả XBP, các nhân tố tác động đến
giá, các quy luật biến đổi giá...Tìm hiểu về giá để doanh nghiệp có những chính sách
định giá cho phù hợp với thị trường và khả năng của mình.
+ Về khách hàng. Phải xác định được quy mô của khách hàng, đặc điểm và xu
hướng chung của khách hàng, cơ cấu của nhu cầu với XBP, đặc biệt là sự mong muốn
và kì vọng của công chúng về hàng hóa XBP.
+ Về lực lượng kinh doah trên thị trường. Là tìm hiểu rõ về số lượng các nhà kinh
doanh. Sự tập trung, quy mô, chính xách và khả năng của họ. Phương thức kinh
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
15
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
doanh, tính đa dạng mặt hàng mà họ kinh doanh. Điều đó giúp các doanh nghiệp xác
định được tiềm lực và mức độ thành công của các đối thủ để xác định đối tượng cạnh
tranh, hình thức cạnh tranh hoặc là một sự liên kết hợp tác nào đó...
+ Về tính chất của thị trường XBP. Đó là thị trường độc quyền hay cạnh tranh?
Trung tâm hay khu vực? Mức độ phát triển hiện tại và xu hướng của nó? Với hàng
hóa XBP các doanh nghiệp không thể đề cập đến tính chất của thị trường một cách
chung chung, mà cần phải nghiên cứu nó với những đặc điểm, tinh chất của những
chủng loại hàng hóa XBP nhất định. Vì tính đa dạng, đặc trưng rất cao trong chính
hàng hóa XBP. Hơn nữa mỗi loại XBP thường có những cơ chế chính sách riêng của
Nhà nước, Pháp luật...
+Về môi trường của hoạt động kinh doanh cuả doanh nghiệp. Đó là việc xác định
những yếu tố khách quan có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp
XBP cần phải nắm bắt được những tác động của chính trị, kinh tế, của pháp luật, văn
hóa xã hội...đến hàng hóa XBP, công chúng khách hàng và tới chính bản thân doanh
nghiệp. Đặc biệt là các yếu tố về chính trị, pháp luật. Các nhân tố ấy ở mỗi quốc gia là
khác nhau, mỗi khu vực thị trường cũng khác nhau và với mỗi chủng loại XBP cũng
khác nhau. Do vậy các doanh nghiệp luôn phải điều chỉnh hàng hóa của mình, các
biện pháp nghiệp vụ của mình cho phù hợp với những điều kiện đó. Đảm bảo hạn chế

có nội dung rất phong phú. Do sự phát triển chung của xã hội nên những đòi hỏi mong
muốn của công chúng ngày càng cao và đa dạng. Khi tri thức, khoa học, xã hội... ngày
càng đạt được sự phát triển cao khi mà nhu cầu được thỏa mãn của công chúng ngày
càng tăng mạnh, thì nó đã mở ra những cơ hội cho các nhà kinh doanh khi đi sâu khai
thác những khía cạnh rất nhỏ của nhu cầu. Đồng thời đặt ra cho họ những yêu cầu
khắt khe khi nghiên cứu và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Nhu cầu XBP ngoại văn của khách hàng sẽ biểu hiện thành cầu nếu họ có khả năng
thanh toán. Như vậy lượng cầu ấy sẽ bị hạn chế nếu quỹ tiêu dùng của người dân có
hạn. Hơn nữa hàng hóa XBP mà nhà cung cấp mang ra thị trường lại có hạn. Do vậy
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
17
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
cầu XBP ở đây hoặc sẽ được thỏa mãn hoặc sẽ bị hạn chế, biến mất và chuyển thành
cầu hàng hóa khác. Nghĩa là cầu hàng hóa XBP sẽ bị tác động bởi lượng cung.
Tóm lại trong hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu thì nghiên cứu thị trường
là một yêu cầu tiên quyết, quyết định thàng công của doanh nghiệp trên thương
trường. Điều quan trọng trong khâu này chính là tìm ra được đặc điểm của thị trường,
cơ hội và thách thức mà doanh nghiệp bắt gặp khi tham gia kinh doanh. Khả năng đạt
tới, tính ổn định và khả năng tiếp nhận của thị trường sẽ được dành nhiều quan tâm
của các doanh nghiệp trước khi tham gia vào cuộc chơi.
2. Xây dựng chiến lược sản phẩm.
Với các nhà sản xuất kinh doanh thì sản phẩm mà họ tạo ra, đem bán trên thị
trường được ví như những đứa con của họ. Cho nên hiểu đúng để xây dựng hình ảnh
và chất lượng trong đó là một nhiệm vụ sống còn đối với các nhà kinh doanh.
Người ta có thể hiểu sản phẩm từ nhiều góc độ khác nhau.
Quan điểm thứ nhất, người ta coi sản phẩm là kết quả của quá trình thực hiện vật
chất của nó. Tức là sản phẩm hiện vật. Với cách nhìn này thì các doanh nghiệp khó có
thể chứng tỏ được sự phù hợp của sản phẩm khi đem ra thị trường. Vì khi ấy sự thỏa
mãn của khách hàng chưa được đáp ứng đầy đủ và tốt nhất. Bởi lẽ với quan điểm này
các doanh nghiệp sẽ tập trung vào sản xuất sản phẩm dựa trên khả năng của mình hơn

vậy thiết kế sản phẩm phải dựa trên những đặc điểm từ đòi hỏi nhu cầu đó. Khi đã tìm
được tiếng nói chung giữa sản phẩm với nhu cầu của thị trường thì sản phẩm sẽ tự tìm
được chỗ đứng riêng của nó. Khi đó kế hoạch phân phối sản phẩm sẽ dễ dàng hơn.
Quan trọng là kế hoạch ấy phải chỉ ra hướng đến chính xác cho sản phẩm (từng loại
sản phẩm).
Nói cách khác xây dựng chiến lược sản phẩm XBP là các doanh nghiệp phải trả lời
những câu hỏi: đích đến của sản phẩm là ở thị trường nào? Những XBP nào sẽ phù
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
19
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
hợp ? Kế hoạch phân phối hàng hóa như thế nào ? Nó phải được xây dựng trên cơ sở
kế hoạch phân đoạn thị trường, hướng thị trường trọng điểm, mục tiêu một cách chính
xác. Làm được điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ nhận được những tấm
giấy thông hành khi tham gia thị trường.
Thị trường trọng điểm là địa bàn hoạt động chính của doanh nghiệp. Đây là thị
trường quen thuộc của doanh nghiệp. Ở đây tập trung phần lớn hàng hóa cũng như các
cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp. Ở thị trường này việc giữ vững và tăng trưởng
mức doanh thu cũng như lợi nhuận là đòi hỏi số một. Nếu doanh nghiệp quan niệm
rằng đó là những thị trường quen, với khách hàng quen thuộc ... mà quên mất cải tiến
sản phẩm và hoàn thiện dịch vụ...thì đó là một sai lầm. Đặc biệt với những thị trường
khó tính. Các doanh nghiệp phải cẩn trọng đến tính hai mặt của thị trường. Phải xác
định cạnh tranh luôn luôn diễn ra và rất khốc liệt kể cả khi doanh nghiệp đã chiếm
lĩnh được thị trường. Quan trọng hơn là doanh nghiệp phải cạnh tranh với nguy cơ
quay lưng của khách hàng và với sự lạc hậu của mình.
Ở thị trường mục tiêu, các doanh nghiệp với những bước đi cẩn trọng của mình xác
định nhũng tham số của thị trường với những thông số về phạm vi thị trường, quy mô
thị trường, đặc điểm nhu cầu, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu...để thiết kế mẫu thử
cho sản phẩm của mình.
Với các doanh nghiệp XBP yêu cầu đổi mới có ý nghĩa sống còn. Đôi khi chỉ một
chút ít sự thay đổi mà tạo ra những sự khác biệt lớn lao cho doanh nghiệp, cho chính

Như vậy xây dựng chiến lược sản phẩm là tổng thể thực hiện nhiều biện pháp khác
nhau. Trong đó là hai kế hoạch cơ bản là thiết kế sản phẩm và phân phối sản phẩm.
Những biện pháp ấy phải luôn gắn với thị trường mà cụ thể là nhu cầu của khách
hàng.
Xây dựng chiến lược sản phẩm phải dựa trên mục tiêu và năng lực của doanh
nghiệp. Và tuyệt đối không có sự mâu thuẫn nào giữa hai yếu tố đó. Chiến lược sản
phẩm là xây dựng tương lai cho sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy nếu doanh nghiệp
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
21
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
còn giữ tư tưởng bám đuổi thị trường thì không thể phát triển mạnh mẽ được. Phải
đón trước nhu cầu để điểu chỉnh nhu cầu. Xây dựng chiến lược sản phẩm phải hướng
đến mục tiêu điều chỉnh nhu cầu của khách hàng. Đó là yêu cầu lâu dài và quan trọng
bậc nhất trong chiến lược sản phẩm mà các doanh nghiệp XBP phải hướng đến.
3. Xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu XBP.
Kế hoạch là cho tương lai. Vì vậy xây dựng kế hoạch để thực hiện trong kì kinh
doanh doanh nghiệp phải tiến hành trong thời gian trước. Kế hoạch là một bảng biểu
gồm tất cả các mục tiêu, chỉ tiêu cần đạt được và những công việc, nghiệp vụ cần và
sẽ thực hiện. Người ta thường ví kế hoạch như một bảng “Lịch” thực hiện một công
việc gì đó. Nói như vậy cũng có phần đúng nhưng chưa thỏa đáng trong kinh doanh
nói chung và trong kinh doanh XBP xuất nhập khẩu nói riêng. Bởi lẽ kế hoạch là dự
định cho tương lai. Mặc dù nó được xây dựng trên cơ sở khoa học nhất định đó là kinh
nghiệm thực hiện trong thời gian trước và dự đoán xu thế phát triển trên cơ sở tiềm
hiểu nghiên cứu thị trường. Thế nhưng thị trường không bao giờ tĩnh lặng và cũng có
khi ẩn chữa những điểm “tĩnh” giả tạo. Do vậy dự đoán vẫn là dự đoán. Sự thay đổi
luôn diễn ra cả theo chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực cho doanh nghiệp. Bởi vậy một
kế hoạch tốt cho một chiến lược tốt là một kế hoạch cụ thể mà linh hoạt.
Với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu XBP thì nó còn có ý nghĩa quan trọng bởi
bởi phạm vi của thị trường là rất rộng lớn. Tính chất của thị trường rất phức tạp. Các
doanh nghiệp dễ bắt gặp nhầm điểm đến của mình. Trong trường hợp này kinh

bỏ qua đó là: khả năng của doanh nghiệp và sự biến động và các tham số của thị
trường. Do đó tùy theo khả năng và mục tiêu của doanh nghiệp mà xây dựng kế hoạch
xuất nhập khẩu như thế nào cho phù hợp và đạt được hiệu quả kinh tế cao.
ĐÀO ĐÌNH HOAN Lớp PHXBP 21B
23
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
4. Thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu XBP.
Sau khi đã tiến hành lập kế họach xuất nhập khẩu, doanh nghiệp tổ chức thực hiện
kế hoạch ấy. Việc thực hiện kế họach đã được định sẵn là không đơn giản. Vì trên
thực tế không phải lúc nào cũng được dự báo chính xác trong kế hoạch. Hơn nữa
doanh nghiệp phải tiến hành rất nhiều công việc cho những chỉ tiêu nhất định.
Để thực hiện kế hoạch, doanh nghiệp phải chuẩn bị tốt những công tác sau:
+ Chuẩn bị nhân sự
+Chuẩn bị tài chính
+ Chuẩn bị cơ sở vật chất kĩ thuật...
Và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ sau:
+Tìm kiếm khách hàng (thực hiện giới thiệu, chào hàng, Marketing...);
+Tìm kiếm và thực hiện khai thác nguồn hàng;
+Kí kết các hợp đồng mua bán, hợp đồng giao nhận...;
+Thực hiện các hoạt động xúc tiến...
Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp vừa phải chú ý đến kế hoạch, bám sát kế
hoạch nhưng lại phải năng động trước thực tế biến động của thị trường. Để có thể điều
chỉnh và tham mưu nhằm hoàn thiện kế hoạch và thực hiện hiệu quả các chỉ tiêu đề ra.
Các nguyên tắc mà khi thực hiện doanh nghiệp cần đảm bảo các nguyên tắc:
+Đảm bảo bám sát kế hoạch;
+ Thực hiện nhanh nhạy, năng động, phản ứng tốt với thị trường;
+Tổ chức thực hiện các hợp đồng, cam kết một cách chính xác, đảm bảo uy tín cho
doanh nghiệp;
+Đảm bảo hiệu quả kinh tế, mục tiêu của doanh nghiệp;
+ Vừa thực hiện vừa tìm kiếm, vừa tham mưa cho các bộ phận nghiệp vụ khác ...

Trích đoạn Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu XBP. Vai trò của hoạt động xuất khẩu XBP. Vai trò của hoạt động nhập khẩu XBP Quá trình xây dựng và phát triển. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status