Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng - Pdf 11

LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh
tế Việt Nam. Đất nước ta chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế từ cơ chế hành chính,
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quẩn lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo cơ chế mới này tất cả các thành phần kinh tế đều
được tự do phát triển, tự mình tìm thị trường kinh doanh, tự hạch toán kinh doanh,
mở rộng thị trường của mình. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lãi, có chỗ đứng trên
thị trường thì sẽ tồn tại, nếu doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ thì sẽ bị đào thải khỏi
thị trường.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có một chiến lược sản xuất kinh
doanh cụ thể, đúng đắn và có hiệu quả. Một trong những chiến lược phát triển mà
bất kì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải chú trọng đó chính là
chiến lược về tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp không xác định được chiến lược
tiêu thụ sản phẩm một cách đúng đắn thì sẽ gây ra sự tồn đọng hàng hoá, làm chậm
vòng quay của vốn sản xuất dẫn đến sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn, doanh
nghiệp sẽ làm ăn không có lãi. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ngày càng mang tính
cấp thiết đối với mọi doanh nghiệp nó đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa của các cấp lãnh
đạo và đặc biệt là các bộ phận phòng ban làm công tác tiêu thụ. Chỉ có như vậy
doanh nghiệp mới có thể đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khi thực
hiện hội nhập nền kinh tế. Trong bối cảnh như trên công ty dệt may Huy Hoàng
cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Qua thời gian thực tập tại công ty em nhận
thức được sự cần thiết phải có biện pháp để nghiên cứu đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm
một cách hợp lý, phù hợp. Được sự hướng dẫn tận tình của hai cô giáo Uông Thị
Phương Mai và Lê Thị Kim Hoa, cùng sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các anh, chị cán
bộ công nhân viên của công ty dệt may Huy Hoàng, em đã mạnh dạn chọn thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm
của Công ty dệt may xuất nhập khẩu Huy Hoàng”. Với mục tiêu nhằm phân
tích thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt may Huy Hoàng, trên cơ
sở thành tựu đạt được và các khó khăn mà công ty gặp phải, kết hợp giữa lý thuyết
Trang 1

tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn.
Qua tiêu thụ tính hữu ích của sản phẩm mới được xác định hoàn toàn. Có tiêu
thụ được sản phẩm mới chứng tỏ được năng lực kinh doanh của công ty.
Sau quá trình tiêu thụ công ty không những thu hồi được tổng số chi phí có
liên quan đến việc chế tạo và tiêu thụ sản phẩm mà còn thực hiện được giá trị lao
động thặng dư. Đây là nguồn quan trọng để tích luỹ vào ngân sách vào các quỹ của
xí nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ
công nhân viên.
2. Vai trò, nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
Đánh giá đúng tình hình tiêu thụ về mặt số lượng, chất lượng và mặt hàng,
đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ.
Tìm ra những nguyên nhân và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến tình hình tiêu thụ.
Đề ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tăng khối
lượng sản phẩm tiêu thụ cả về mặt khối lượng lẫn chất lượng.
Mục đích : Qua tiêu thụ sản phẩm không những thu được lợi nhuận mà còn giúp
công ty tái sản xuất mở rộng sản xuất.
Quan hệ Maketing và tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ sản phẩm nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách Maketing của
công ty và chính sách Maketing thực hiện chính là nhằm tiêu thu sản phẩm. Qua tiêu
Trang 3
thụ các thông tin phản hồi sẽ được bộ phận Maketing xử lý để đưa ra chính sách phù
hợp hơn.
3.Yêu cầu đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp sản xuất. Hoạt động tiêu thụ của
doanh nghiệp có thuận lợi, có thu được hiệu quả thì vốn của doanh nghiệp mới được
quay vòng nhanh, mới có hiệu quả, hoạt động sản xuất của doanh nghiệp mới có thể
diễn ra một cách liên tục và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do vậy, đối với

Phân tích cầu:nhằm xác định nhu cầu thực sự của thị trường về hàng hoá, xu
hướng biến động từng thời kì trong từng khu vực để thấy được đặc điểm của nhu
cầu ở từng khu vực. Trong đó phải nghiên cứu các vấn đề sau:
+ Khách hàng mà doanh nghiệp nhằm vào.
+ Khu vực tiêu thụ.
+ Sản phẩm thay thế.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tới cầu.
Phân tích tình hình cạnh tranh trên thị trường nhằm tìm hiểu rõ về các đối thủ
cạnh tranh của mình hiện tại và tương lai bởi vì nó tác động rất lớn đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty cần chú ý tới việc nghiên cứu các đối thủ
cạnh tranh của mình về số lượng, khả năng cung ứng, khả năng tài chính, kế hoạch
sản xuất, kế hoạch tiêu thụv..v. Cần phải nghiên cứu kỹ phản ứng của các đối thủ
cạnh tranh trước các biện pháp về giá, quảng cáo khuyến mại của công ty.
Phân tích mạng lưới tiêu thụ: nhằm đáp ứng, phục vụ khách hàng một cách
tốt nhất. Bên cạnh đó công ty cần nghiên cứu tổ chức mạng lưới tiêu thụ sao cho
phù hợp với điều kiện của mìnhnhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
*Phương pháp thu thập thông tin:
Thông tin được lấy từ: Báo, tạp chí, ấn phẩm, báo cáo. Phương pháp này
thường áp dụng để nghiên cứu khái quát về thị trường, lập danh sách những thị
trường có triển vọng mà công ty cần tập trung khai thác.
Nhược điểm: của phương pháp này là khó khăn trong việc lựa chọn thông tin
từcác nguồn khác nhau, thông tin có thể bị cũ, thông tin không chính xác, không đầy
đủ, độ tin cậy không cao.
Ưu điểm : Dễ thực hiện tiết kiệm chi phí.
Trang 5
Thông tin sơ cấp thu được khi sử dụng một số phương pháp như: Quan sát,
thực nghiệm thăm dò, phỏng vấn. Sau khi thu thập các thông tin cần thiết công ty
cần phải tiến hành xử lý thông tin để loại bỏ những thông tin không quan trọng,
chưa chính xác, không thuyết phục. Trên cơ sở đó xây dựng phương án kinh doanh
có tính khả thi. Trên cơ sở các phương án đưa ra doanh nghiệp tiến hành đánh giá

vực tiếp thị một cách hiệu quả nhằm kéo dài hơn chu kỳ sống của sản phẩm, tăng lợi
nhuận mà một sản phẩm đem lại cho công ty toàn bộ đời sống của nó.
- Giai đoạn thâm nhập: Sản phẩm được đưa vào thi trường nhưng tiêu thụ rất
chậm do hàng hoá được ít người biết đến. Chi phí cho một đơn vị sản phẩm là rất
lớn. Trong giai đoạn này doanh nghiệp thường bị lỗ. Nhiệm vụ của giai đoạn này
đối với doanh nghiệp là: giữ bí mật công nghệ, thiết bị, thiết lập các kênh phân phối,
thăm dò thị trường và tăng cường quảng cáo.
-Giai đoạn tăng trưởng: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng nhanh
do thị trường đã chấp nhận thị trường mới. Chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm
giảm nhanh. Việc mở rộng hay tấn công vào những phân đoạn mới của thị trường là
tương đối thuận tiện. Cần phải sử dụng các nguồn lực để:
+ Cải tiến chất lượng và phát triển mẫu mã mới.
+ Khai thác các đoạn thị trường mới.
Tìm kiếm các kênh tiêu thụ mới.
- Giai đoạn bão hoà: Đây là giai đoạn kéo dài nhất nó được đặc trưng bởi số
lượng bán ra ổn định. Ở cuối giai đoạn này khối lượng hàng hoá bán ra giảm dần.
Trong giai đoạn này thì chi phí kinh doanh tính cho một đơn vị sản phẩm thấp nhất,
lãi tính cho một đơn vị sản phẩm cao nhất do khối lượng sản phẩm bán ra lớn nhất
nên tổng lợi nhuận thu được lớn nhất. Khi sản lượng tiêu thụ bị chững lại và giảm
xuống, doanh nghiệp cần có ngay các biện pháp, chính sách để khai thác thị trường
ở giai đoạn tiếp sau.
- Giai đoạn suy thoái: Đặc trưng của giai đoạn này là khối lượng sản phẩm
tiêu thụ giảm rất nhanh.Nếu không giảm sản lượng sản xuất thì khối lượng sản
phẩm tồn kho lớn dần dẫn tới lợi nhuận giảm nhanh. Nếu tình trạng này kéo dài thì
doanh nghiệp có thể bị thua lỗ nặng dẫn tới phá sản. Doanh nghiệp cần phải tìm
những biện pháp hữu hiệu để khắc phục như: cải tiến sản phẩm, quảng cáo, chuẩn bị
sẵn những sản phẩm thay thế để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được
diễn ra liên tục.
Trang 7
Nghiên cứu phân tích chu kỳ sống của sản phẩm hiểu biết tỷ mỷ vấn đề này

Đây cũng là một trong những chính sách quan trọng về tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Mỗi khi có một sản phẩm mới ra đời, doanh nghiệp cần phải có một
chính sách khuyếch trương quảng cáo cho sản phẩm một cách có hiệu quả để sản
phẩm có thể đến được nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng. Một sản phẩm có thể
tiêu thụ một cách có hiệu quả là sản phẩm mang lại cho người tiêu dùng cảm giác
quen thuộc và sẽ nghĩ ngay đến sản phẩm đó khi có nhu cầu sử dụng. Chính sách
giao tiếp khuyếch trương sản phẩm chính là các chính sách về giới thiệu, quảng cáo
và tiếp thị sản phẩm đến với người tiêu dùng. Do vậy, khi bất kì một sản phẩm mới
nào bắt đầu được tung ra thị trường thì ngoài việc xây dựng các chính sách về giá,
chính sách phân phối, chính sách về sản phẩm để có thể cạnh tranh với các sản
phẩm khác và tồn tại trên thị trường thì các nhà quản trị cũng cần phải xây dựng một
chính sách giao tiếp khuyếch trương, tiếp thị, qảng cáo cho sản phẩm đến được với
người tiêu dùng.
2.4. Chính sách phân phối:
Phân phối là toàn bộ các công việc để đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ từ nơi
sản xuất đến người tiêu dùng có nhu cầu đảm bảo về chất lượng thời gian, số lượng,
chủng loại mà người tiêu dùng mong muốn.
Kênh phân phối là con đường mà hàng hoá được lưu thông từ các nhà sản
xuất đến người tiêu dùng, nhờ nó mà khắc phục được những ngăn cách dài về thời
gian địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất
Với người tiêu dùng. Do vậy mỗi doanh nghiệp cần phải tìm ra kênh phân
phối hiệu quả nhất cho mình.
Hình 9 : Sơ đồ các kênh phân phối.

Trang 9
Nhà SX
Nhà SX
Nhà SX
Nhà SX
Người bán sỉ Người bán lẻ Người TD

cửa hàng bán sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng phát huy được ưu
điểm của cả hai phương thức trên.
Khi xây dựng kênh phân phối doanh nghiệp cần tính đến:
+ Đặc điểm thị trường, sản phẩm.
+ Đặc tính kỹ thuật của sản phẩm.
+ Đặc điểm của đối thủ cạnh tranh.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIÊU THỤ SẢN PHẨM:
1. Nhóm nhân tố khách quan:
Trang 10
1.1.Nhu cầu của thị trường:
Thị trường là nhân tố quan trọng trong chiến lược phát triển sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Có thể nói, thị trường chính là môi trường sống của
các doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại nếu tách khỏi thị trường, hoạt
động trái với các quy luật phát triển của thị trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có
thể hoạt động dựa theo quy luật phát triển của thị trường mà không thể điều chỉnh
thị trường được, do vậy thị trưồng tiêu thụ chính là nhân tố khách quan điều chỉnh
trực tiếp, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất kì
một doanh nghiệp nào khi đầu tư vào một loại sản phẩm đều phải xét đến nhu cầu
của thị trường để có những chính sách đầu tư hợp lí cho sản phẩm.
1.2. Đối thủ cạnh tranh :
Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đến các
đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh là người đang chiếm giữ một phần thị phần
và giành giật một phần khách hàng của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần
phải tìm cách để nắm bắt, phân tích các thông tin về đối thủ như: Chính sách giá,
chính sách phân phối, chính sách sản phẩm v.v... từ đó có các biện pháp phù hợp.
1.3. Các điều kiện tự nhiên, địa lí...
Các điều kiện địa lí, tự nhiên... ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình vận chuyển
và tiêu thụ sản phẩm. Điều kiện tự nhiên, thiên nhiên sẽ quyết định chi phí vận
chuyển của hàng hoá, do đó ảnh hưởng đến giá thành cuối cùng của sản phẩm và
sức cạnh tranh của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, các điều kiện

hưởng tiêu cực đến toàn bộ quá trình kinh doanh. Và ngược lại nếu tổ chức tốt thì
công ty sẽ tiêu thụ nhiều sản phẩm hơn, doanh thu tăng , vòng quay vốn lưu động
tăng, giảm chi phí dự trữ bảo quản... Vì vậy công ty cần lựa chọn tổ chức tiêu thụ
sao cho phù hợp với đặc tính của sản phẩm và quy mô sản xuất. Bên cạnh đó công
ty còn tổ chức các hoạt động hỗ trợ như: Quảng cáo, khuyến mại, dịch vụ sau bán
hàng, hội họp để tạo dựng lòng tin của khách hàng đối với công ty.
VI. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN
PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP:
1. Lượng sản phẩm tiêu thụ:
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, lượng sản phẩm tiêu thụ là những
sản phẩm đã xuất kho thành phẩm để giao cho khách hàng và đã nhận được tiền.
Xác định lượng sản phẩm trong năm phải căn cứ vào sản lượng sản xuất của sản
Trang 12
phẩm, hợp đồng kinh tế ký kết với khách hàng, nhu cầu thị trường, khả năng đổi
mới phương thức thanh toán và tình hình tiêu thụ sản phẩm tiêu thụ của năm trước.
Lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ kế hoạch của doanh nghiệp được xác định theo
công thức.
Q
kh
= Q- Q
1
- Q
2
.
Trong đó:
Q
kh
: Lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ kỳ kế hoạch.
Q: Khối lượng sản phẩm sản xuất kỳ kế hoạch.
Q

vụ trên mỗi thị trường cần phải tính toán doanh thu biên( MR) bằng chi phí
biên( MC ).
MR= MC.
Trang 13
Từ đó mới quyết định lượng cung hàng hoá và dịch vụ. Khối lượng hàng hoá
dịch vụ bán ra của doanh nghiệp nhiều hay ít, giá cả cao hay thấp còn phụ thuộc chủ
yếu vào chất lượng hàng hoá nhu cầu của khách hàng dung lượng thị trường, địa
điểm bán hàng, phương thức phân phối và bán hàng.
3. Lợi nhuận và mức doanh lợi:
Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Đây chính là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh hiệu quả quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là phần dôi ra ngoài những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
LN= TR- TC = (P - ATC)x Q.
LN: Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
TR: Tổng doanh thu bán hàng của doanh nghiệp
TC: Tổng chi phí của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều cố gắng nhằm mục đích tối đa
hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ đạt được lợi nhuận tối đa khi MR= MC.
Khi xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài giá trị
tuyệt đối lợi nhuận ta còn sử dụng chỉ tiêu mức doanh lợi. Có ba cách tính mức
doanh lợi khác nhau.
- Tính trên vốn kinh doanh:
Mức doanh lợi = Tổng lợi nhuận/ vốn kinh doanh.
- Tính trên doanh số bán hàng thực hiện.
Mức doanh lợi = tổng lợi nhuận/ Doanh thu.
- Tính trên chi phí kinh doanh.
Mức doanh lợi=Tổng lợi nhuận /Tổng chi phí kinh doanh.
Ngoài ra người ta thường có tính đến mức tăng trưởng hàng năm của doanh

bảo dưỡng sửa chữa, mua sắm tài sản cố định nhằm duy trì và nâng cao năng lực
của tài sản cố định, đồng thời doanh nghiệp cần chủ động đổi mới tài sản cố định.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và
tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được
tiến hành một cách thường xuyên và liên tục . Vốn lưu động tham gia toàn bộ vào
quá trình sản xuất nó được thu hồi toàn bộ sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh .
Trang 15
Vòng quay của vốn lưu động nhanh hay chậm hay nói cách khác một chu kỳ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dài hay ngắn thể hiện rõ hiệu suất của quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trực tiếp đánh giá hiệu quả của công
tác tiêu thụ sản phẩm .
V. NỘI DUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TIÊU THỤ :
1. Phân tích chung tình hình tiêu thụ:
Phân tích chung tình hình tiêu thụ là xem xét đánh giá sự biến động của khối
lượng sản phẩm tiêu thụ xét ở toàn công ty và đối với từng mặt hàng đồng thời xem
xét mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ để thấy khái quát tình hình tiêu thụ
và những nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến tình hình đó.
Sản phẩm của công ty chỉ được xem là tiêu thụ khi công ty xuất kho sản
phẩm gửi tiêu thụ và thu được tiền hoặc được khách hàng chấp nhận thanh toán.
Phương pháp phân tích:
Áp dụng phương pháp so sánh: So sánh doanh thu thực tế tính theo giá bán
kế hoạch(hoặc giá cố định) với doanh thu kế hoạch tính theo giá bán kế hoạch(hoặc
giá cố định) về cả số tuyệt đối lẫn số tương đối.
Tỷ lệ hoàn Σ( Khối lượng tiêu thụTT* giáTT)
thành kế hoạch =
tiêu thụ chung Σ(Khối lượng tiêu thụKH* giá KH).
So sánh khối lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế với kế hoạch và năm trước của
từng loại sản phẩm , đồng thời so sánh tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ với tỷ lệ
hoàn thành kế hoạch sản xuất sản phẩm hàng hoá.
2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ mặt hàng chủ yếu:

Tháng 4 năm 1993 công ty xuất nhập khẩu thiết bị Việt Nam( Techno import)
ký hợp đồng với công ty Union matex cộng hoà liên bang Đức về việc cung cấp
thiết bị công nghệ cho một nhà máy kéo sợi có 100000 cọc sợi.
Ngày 16 tháng 4 năm 1993 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây ra quyết
định cho phép xây dựng dệt may Huy Hoàng đặt tại khu Công nghiệp Chùa Tổng-
La Phù-Hoài Đức-Hà Tây.
*Các giai đoạn phát triển của công ty dệt may Huy Hoàng:
Trang 17
Quá trình xây dựng và phát triển của công ty được đánh dấu bằng ba giai
đoạn chính:
Giai đoạn 1: Từ năm 1994 đến năm 1996 đây là giai đoạn xây dựng và lắp
đặt trang thiết bị. Ngày 21tháng 11 năm 1996 các hạng mục cơ bản chính được hoàn
thành và chính thức bàn giao công trình cho nhà máy quản lí.
Giai đoạn 2: Từ năm 1996 đến năm 2000 là giai đoạn vừa sản xuất vừa hoàn
thiện. Công ty đã xây dựng thêm một phân xưởng dệt kim ngày 31 tháng 7 năm
1999 với công suất 1000 tấn mỗi năm.
Giai đoạn 3: Từ năm 2000 đến nay là giai đoạn phát triển sản xuất. Tháng 4
năm 2001 lãnh đạo công ty quyết định chuyển đổi tổ chức hoạt động của nhà máy
sợi thành xí nghiệp liên hiệp sợi dệt kim Huy Hoàng. Tên giao dịch là Công ty xuất
nhập khẩu Huy Hoàng với cơ cấu tổ chức là các phòng chức năng và các phân
xưởng sản xuất.
Công ty dệt may Huy Hoàng là công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm các
phân xưởng sản xuất sau:
- Phân xưởng sản xuất sợi.
- Phân xưởng dệt .
- Phân xưởng nhuộm.
- Phân xưởng may số 1.
- Phân xưởng may số 2.
- Phân xưởng may số 3.
- Phân xưởng bao gói sản phẩm.

KCS
Phòng
điều
hành
sản
xuất
Phòng
Kế
Toán
Phòng
kế
Hoạch
thị
trường
Phòng
xuất
nhập
khẩu
Phân
xưởng
sợi
Phân
xưởng
nhuộm
Phân
xưởng
may
1
Phân
xưởng

chất lượng sản phẩm. Nhiệm vụ của trung tâm là nâng cao, kiểm tra chất lượng sản
phẩm, xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm.
Phòng điều hành sản xuất:Có nhiệm vụ điều tiết công việc sản xuất của công
ty nói chung và của các nhà máy thành viên nói riêng.
Phòng kế hoạch thị trường: Có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm trên cơ sở nghiên cứu thị trường.
Các phân xưởng sản xuất:
Phân xưởng sợi: Có nhiệm vụ sản xuất ra các loại sợi cotton, PE với các chỉ
số kỹ thuật khác nhau để bán và phục vụ cho các phân xưởng sản xuất trong công
ty. Sản phẩm sợi thành phẩm được kiểm tra đóng gói nhập vào kho.
Phân xưởng dệt vải: Có nhiệm vụ dệt vải từ sợi theo các quy định của công ty
để phục vụ cho phân xưởng may.
Phân xưởng may: May gia công các loại áo dệt kim theo kế hoạch, sau đó
nhập kho.
Công ty hoạt động có hiệu quả theo hai cấp quản lý, cấp công ty và cấp phân
xưởng sản xuất với các chức năng thể hiện ở các mặt sau:
Tiêu thụ sản phẩm.
Trang 20
Công nghệ.
Cung ứng vật tư.
Lao động tiền luơng.
Tài chính kế toán.
Kế hoạch.
Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty theo hình thức trực tuyến chức năng.
Theo cơ cấu này các bộ phận chức năng không ra mệnh lệnh trực tiếp cho các đơn
vị sản xuất mà chỉ hướng dẫn với tư cách là cơ quan tham mưu cho giám đốc để
thông qua giám đốc quyết định. Đồng thời các bộ phận này có quyền đề xuất chỉ
dẫn và kiểm soát việc thực hiện các chỉ tiêu đó của cấp dưới.
4. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp:

Bao gói
Bán ra thị trường
Đốt lông
Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty có thể chia ra nhiều giai
đoạn riêng biệt, gián đoạn về mặt thời gian không đòi hỏi tính liên tục chặt chẽ
trong quá trình gia công chế biến như từ bông kéo thành sợi, từ sợi dệt thành vải, từ
vải mộc nhuộm in hoa thành vải thành phẩm, từ vải thành phẩm cắt may thành các
sản phẩm quần áo đều tiến hành ở những phân xưởng sản xuất riêng biệt.
Trong mỗi giai đoạn công nghệ sản xuất được thực hiện ở một số phân
xưởng sản xuất. Sản phẩm của từng giai đoạn sản xuất như: Sợi, vải mộc, vải thành
phẩm, sản phẩm may đều có giá trị sử dụng độc lập và có thể được tiếp tục chế biến
trong nội bộ công ty hoặc bán ra ngoài thị trường.
* Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm sợi:
Cung bông: Bông, xơ được xé nhỏ từ các kiện bông nguyên liệu. Mỗi miếng
bông có khối lượng 100g- 150gam được đưa vào máy bông để làm thành những
miếng nhỏ 1mg- 1,5mg sau được đưa sang máy chải.
Chải: Tại đây bông được loại trừ đến mức tối đa các tạp chất, xơ kết. Máy
chải làm cho các xơ duỗi thẳng hơn và song song với nhau theo hướng ra của cúi tạo
thành cúi chải.
Ghép: Các cúi chải, từ 6-8 cúi chải có cùng độ nhỏ được đưa vào máy ghép
tạo thành cúi ghép đồng thời các suốt kéo dài để muốt làm cho các sơ duỗi thẳng.
Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng về các loại sợi có tỷ lệ thành phần cotton và PE
khác nhau việc pha trộn được tiến hành trong giai đoạn này.
Thô: Các cúi ghép được đưa sang máy thô để kéo dài tạo săn, làm nhỏ các
cúi ghép và tăng độ bền. Bán thành phẩm của bước công việc này là các quả sợi thô.
Kéo sợi con: Làm nhỏ sợi thô thành sợi con và xe sợi săn bằng cách xoắn cho
sợi có độ săn cần thiết để tạo độ bền cho sợi con.
Đậu xe( Đánh ống): Các quả sợi con được tháo ra và cuốn lại thành những
quả sợi lớn có hình dáng kích thước phù hợp. Khi quấn sợi con được làm sạch. Tại
những chỗ quá dầy hoặc quá mỏng sợi sẽ bị cắt đứt, các đầu sợi được nối lại đúng

sợi công ty còn sản xuất các mặt hàng như: khăn, hàng dệt kim, vải Denim.
Công ty luôn thực hiện phương trâm sản xuất là chỉ đưa vào kế hoạch sản
xuất mặt hàng đã kí hợp đồng và chắc chắn sẽ được tiêu thụ trên thị trường
Bảng 10 : Bảng kết quả tiêu thụ các mặt hàng của công ty dệt may Hà Nội.
Đơn vị tính : Triệu đồng.
Trang 23
Các chỉ
tiêu
Năm
So sánh tình hình thực hiện
các năm ( ĐVT %)
2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003
Tổng
doanh thu
47.331 55.898 53.580 109,3204 97,54719
Sợi 28.880 28.295 27.397 97,9743 96,82629
Dệt kim 14.107 15.579 14.837 110,4345 95,23718
Khăn 3.750 4.903 4.647 130,7467 94,77871
Denim 4.954 5.870 5.749 118,4901 97,93867
Mũ 375 686 947 18,29333 138,04666
Khác 593 562 947 94,77234 168,5053
Qua bảng trên ta thấy rằng tổng doanh thu của công ty năm 2003 tăng khá
mạnh so với năm 2002 nhưng sang năm 2004 lại giảm xuống. Cụ thể là: Tổng
doanh thu năm 2003đạt 55.898 triệu đồng tăng 9% so với năm 2002, sang năm 2004
thì tổng doanh thu lại giảm 2,5%. Nhìn chung tình hình thực hiện doanh thu năm
2003 tăng mạnh so với năm 2002 nhưng đến năm 2004 thì giảm điều này chứng tỏ
thị trường biến động rất không ổn định.
Tình hình thực hiện chỉ tiêu doanh thu các mặt hàng năm 2003 như sau:
Doanh thu mặt hàng sợi đạt 2.829 triệu đồng, dệt kim đạt 1.557 triệu đồng, khăn đạt
490 triệu đồng và Denim lần đầu tung ra thị trường cũng đạt 587 triệu đồng.

Kh¨n
Denim
Kh¸c
Nhìn biểu đồ trên ta thấy rằng hai mặt hàng sợi và dệt kim chiếm 78,8% tổng
doanh thu, trong đó doanh thu mặt hàng sợi là 51% còn doanh thu mặt hàng dệt kim
là 27,8%. Sản phẩm sợi và dệt kim mang lại phần lớn doanh thu cho công ty do đó
công ty luôn đặt trọng tâm vào hai mặt hàng này, luôn có kế hoạch sản xuất đáp ứng
nhu cầu mọi lúc mọi nơi. Bên cạnh đó doanh thu do sản phẩm Denim mang lại là
một bất ngờ lớn do đây là mặt hàng lần dầu tiên công ty sản xuất và tung ra thị
trường.
1.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ.
1.1.1. Nhu cầu thị trường.
Một công ty muốn có thể sản xuất kinh doanh hoặc tiêu thụ bất cứ một sản
phẩm nào đó thì phải nghiên cứu nhu cầu thị trường, những sở thích tâm lý người
mua trong môi trường nội địa hay một môi trường xuất khẩu.
Công ty muốn tiêu thụ tốt sản phẩm của mình thì phải có những chính sách
nghiên cứu kỹ môi trường, vị trí, địa điểm cần thiết để có thể tung sản phẩm của
mình ra thị trường đó.
Bảng 13 : Bảng tình hình tiêu thụ các sản phẩm năm 2004.
Trang 25

Trích đoạn Nhu cầu thị trường Khả năng đáp ứng của công ty
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status