LUẬN VĂN: Vai trò và ý nghĩa của kiểm toán độc lập ở Việt nam đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân - Pdf 11


LUẬN VĂN:

Vai trò và ý nghĩa của kiểm toán độc lập ở
Việt nam đối với các doanh nghiệp trong
nền kinh tế quốc dân
Lời mở đầu Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang dần dần từng bước chuyển nền kinh tế nước
ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, quan hệ sản xuất ngày càng trở nên phức tạp thì đòi hỏi vai trò quản lý của Nhà
PHần I : những lý luận chung
I:định nghĩa và chức năng của kiểm toán
1.Sự phát triển của kiểm toán
Có thể nói tiền thân của kiểm toán ra đời từ rất lâu, ngay từ thời nguyên
thuỷ người cổ đại đã đánh dấu trên các thân cây, buộc nút trên các dây thừng
. để theo dõi chi tiêu, kết quả, và để đối chiếu với các Tài sản . . Đặc biệt với
sự ra đời của hệ thống kế toán kép và sự phát triển ngày càng hoàn thiện của hệ
thống phương pháp kế toán (tk 17-20) . Nên hầu hết các nhu cầu kiểm tra Tài
chính đã được thoả mãn
Trong thế kỷ 20, xã hội -khoa học phát triển mạnh dẫn đến sản xuất ngày
càng phát triển, các mối quan hệ về Tài chính, sản xuất . ngày càng đa dạng,
đòi hỏi công tác quản lý về mọi mặt cũng phải được nâng cao . Nhưng thực tế
cho thấy vào những năm 30 của thế kỷ 20 này bằng sự phá sản của hàng loạt
các tổ chức Tài chính tín dụng lớn ở Bắc Mỹ và Tây Âu, chức năng tự kiểm tra
của kế toán mới chịu bộc lộ những yếu điểm của mình so với nhu cầu quản lý của các tổ chức Tài chính, các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ, các đơn vị sự
nghiệp công cộng. Cũng chính hậu quả đó đã dẫn đến những người quan tâm
nghi nghờ hoặc chỉ tin một phần vào kết quả thông báo tình hình Tài chính của
đơn vị . . Do vậy việc xuất hiện một tổ chức kiểm tra ngoài kế toán đó là một
nhu cầu tất yếu, thoả mãn được sự mong mỏi của các bên.
ở những nước có nền kinh tế sớm phát triển thì công việc kiểm tra ngoài
kế toán của một tổ chức độc lập cũng phát triển khá sớm chẳng hạn : ở Pháp viêc
kiểm tra bên ngoài một cách độc lập do những người chuyên nghiệp đảm nhiệm
đã được xác định trong đạo luật về các công ty thương mại ngày 24/07/1966, và
năm 1960 kiểm toán nội bộ ở Pháp chính thức được thành lập nhằm mở rộng,
tăng cường, ổn định và hiệu quả của các xí nghiệp. Đến năm 1965 đã thành lập

đó là một nhu cầu văn minh của xã hội.

2.Bản chất và chức năng của kiểm toán.

A.Kiểm tra,kiểm soát-một chức năng của quản lý
Nói một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức
thực hiện các định hướng đã định trên cơ sơ những nguồn lực xác định nhằm đạt
hiệu quả cao nhất. Quá trình này bao gồm nhiều chức năng và có thể chia thành
nhiều giai đoạn, ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và
mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục
tiêu, xây dựng các trương trình, kế hoạch. . . Sau đó có thể đưa ra các quyết định
cụ thể để tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các
nguồn lực theo các phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến
và kết quả của các quá trình để điều hoà các mối quan hệ, điều chỉnh các định
mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động. Nhưng kiểm tra
không phải là một giai đoạn của quản lý mà nó được thực hiện ở tất cả các giai
đoạn của quá trình này, bởi vậy cần phải quan niệm kiểm tra là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên chức năng này được thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào
cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền thống
văn hoá và những điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Về phân cấp quản lý, có nhiều mô hình khác nhau nhưng thường là phân
thành quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô của các đơn vị cơ sở. Nhà
nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhà
nước trực tiếp kiểm tra mục tiêu chương trình, kế hoạch, kiểm tra các nguồn lực,
kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các đơn vị, kiểm tra tính
trung thực của các thông tin và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ. Mặt
khác Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các chuyên gia hoặc các tổ
chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua các chính sách của mình

Quan điểm 2: kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một chức
năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán, nội dung của hoạt
động này là rà soát các thông tin kế toán từ chứng từ kế toán, định khoản và ghi
sổ kế toán, tính giá các đối tượng kế toán và tổng hợp cân đối kế toán.
Quan điểm này mang tính truyền thống trong điều kiện kiểm toán chưa phát
triển và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế này Nhà nước vừa là
chủ sở hữu, vừa lãnh đạo trực tiếp nền kinh tế. Do đó, chức năng kiểm tra của
Nhà nước được thực hiện trực tiếp với mọi thực thể kinh tế xã hội thông qua
nhiều khâu kể cả kiểm tra kế hoạch, kiểm tra tài chính thường xuyên qua giám
sát viên của Nhà nước đặt tại xí nghiệp, đó là kế toán trưởng, đến việc quyết
toán và thanh tra các nghiệp vụ cụ thể. Tuy nhiên quan điểm này mâu thuẫn với
việc công nhận kiểm toán là một hoạt động độc lập có phương pháp riêng và được
thực hiện bởi một bộ máy riêng biệt.
Quan điểm 3 : Quan điểm hiện đại.
Ta thấy trong quá trình phát triển kiểm toán không chỉ giới hạn ở kiểm toán
bảng khai tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực
khác như hiệu quả của hoạt động kinh tế, hiệu năng quản lý, hiệu lực của hệ thống pháp lý trong từng loại hoạt động. . . Vì vậy, theo quan điểm hiện đại
thì phạm vi của kiểm toán rất rộng gồm những lĩnh vực chủ yếu sau :
Lĩnh vực 1: Kiểm toán thông tin hướng vào việc đánh giá tính trung thực và
hợp pháp của các tài liệu là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ
về kinh tế, tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu đó.
Lĩnh vực 2: Kiểm toán quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện
các thể lệ, chế độ, luật pháp ở đơn vị được kiểm toán trong quá trình hoạt động.
Lĩnh vực 3: Kiểm toán hiệu quả có đối tượng trực tiếp là sự kết hợp giữa các
yếu tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh : mua, bán, sản xuất
hay dịch vụ. . . Giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và phương
hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hay cải tổ hoạt động kinh doanh của đơn vị

7. Xác minh về việc đảm bảo các nghiệp vụ đều hợp lý.
Chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện dưới 2 góc độ.
Góc độ tư vấn đưa ra các lời khuyên trong thư quản lý về vấn đề thực hiện
các quy tắc kế toán về hoạch định các chính sách, thực thi các chế độ, pháp
luật, về hiệu quả kinh tế và hiệu năng quản lý bày tỏ ý kiến được thể hiện qua
việc phán xử như một quan toà hoặc kết hợp với xử lý tại chỗ như công việc
của thanh tra.
Như vậy có thể nói : “ Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực
trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống các phương pháp kỹ thuật của
kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có nghiệp vụ tương
xứng trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực :
II.kiểm toán độc lập
1. Định nghĩa
Kiểm toán độc lập đó là loại kiểm toán được phân chia từ kiểm toán nói chung
theo chức năng và chủ thể kiểm toán. Ra đời do yêu cầu cung cấp thông tin tin
cậy của nền kinh tế thị trường đòi hỏi qua quá trình phát triển của nền kinh tế
nói chung, kiểm toán độc lập được tách ra và phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế muốn quản lý và điều hành sản xuất kinh
doanh cần phải có thông tin chính xác, kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng được yêu
cầu đó, đòi hỏi phải có một bên thứ 3 độc lập khách quan có trình độ chuyên môn
cao, dược pháp luật cho phép, cung cấp thông tin tin cậy cho các đối tượng quan
tâm. Vì vậy nó đã hình thành nên loại kiểm toán độc lập này. Luật pháp nhiều
Quốc gia quy định chỉ có các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập mới có
giá trị pháp lý và độ tin cậy.
Hơn thế nữa kiểm toán độc lập đó là một hoạt động đặc trưng của kinh tế thị
trường đó là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu
của khách hàng, khi kinh tế thị trường phát triển thì các mối quan hệ giữa các tổ

và tư vấn trên khắp thế giới.
PW vào Việt nam từ chi nhánh Hồng Kông năm 1992 đã giúp Bộ tài chính và
công ty VACO tổ chức hội thảo về thuế, kế toán, kiểm toán, trợ giúp các chuyên
gia Việt nam tiếp cận thị trường thế giới trong lĩnh vực chuyên ngành, tổ chức các
khoá đào tạo tại Việt nam cùng với công ty VACO, PW đã cung cấp các dịch vụ
nghề nghiệp cho các khách hàng ở Việt nam.
Hiện nay PW đã có chi nhánh ở Hà nội và TPHCM với tên gọi : Công ty trách
nhiệm hữu hạn Price Waterhouse Việt nam.
3. Công ty Arthur Andersen (AA).
Cũng là 1 công ty trong 6 công ty kiểm toán lớn nhất thế giới với khoảng 300
văn phòng trên thế giới. AA cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn như
mọi công ty kiểm toán quốc tế lớn khác.
AA vào Việt nam từ tháng 05/1991 thông qua chi nhánh Philippin và Thái lan,
công ty giúp Việt nam đào tạo các khoá về đào tạo kiểm toán và kế toán. Kết
hợp với thực hiện một số dịch vụ chuyên ngành ở Việt nam. Tháng 08/1995 AA
được phép thành lập chi nhánh ở Việt nam có tên Công ty trách nhiệm hữu hạn
Arthur Andersen Việt nam.
4. Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC). IFAC được thành lập từ năm 1977 có khoảng 100 tổ chức thành viên với mục
tiêu là phát triển và tăng cường sự phối hợp nghiệp vụ kế toán và kiểm toán độc
lập trên phạm vi toàn thế giới với những nguyên tắc và chuẩn mực phổ biến, tiến
dần thành thông lệ của hầu hết các nước trên thế giới, đáp ứng được yêu cầu của
các chính phủ, các doanh nghiệp, các Nhà tín dụng, các cổ đông cũng như đáp
ứng mối quan tâm của công chúng trên thế giới. Mục tiêu của IFAC là thúc đẩy
các nước trên thế giới tiến dần đến sự thống nhất và hoà hợp với xu hướng phát
triển của nền kinh tế thế giới với các tập đoàn xuyên quốc gia, toàn cầu.
Qua trên ta thấy được hoạt động kiểm toán độc lập của các tổ chức kiểm
toán độc trên thế giới ngày càng lớn mạnh và phát triển không ngừng với mục

là một công cụ quản lý tài chính đắc lực góp phần nâng cao tính hiệu quả của nền
kinh tế thị trường.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường đó là nhiều thành phần kinh tế, tự do sản
xuất, kinh doanh theo luật định và tự do cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển thì
mỗi doanh nghiệp phải tự thân vận động, làm mọi cách để hạn chế những khuyết
tật của kinh tế thị trường. Với đặc trưng về tư vấn tài chính và kế toán của mình
kiểm toán độc lập giúp cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cạnh
tranh hay nói một cách khác các tổ chức, các doanh nghiệp cần có kiểm toán độc
lập để giúp cho công việc sản xuất kinh doanh của mình đạt hiệu quả cao.
Còn ở tầm vĩ mô kiểm toán độc lập tạo được sự khách quan hết sức cần thiết để
tập trung phân bổ đồng vốn một cách phù hợp với quy luật và đạt hiệu quả kinh tế
cao nhất để lành mạnh hoá và ổn định thị trường. Hơn thế nữa Nhà nước dưạ vào
kết quả của kiểm toán độc lập để đề ra các chính sách vĩ mô điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Đặc biệt trong thời gian gần đây các doanh nghiệp trong nuớc làm ăn thua
lỗ không phải là ít bên cạnh đó là việc tham nhũng của các cán bộ có chức có
quyền ,móc ngoặc với nhau để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa ,tài sản của
nhân dân điển hình là các vụ án như Nhà máy dệt Nam Định và gần đây là vụ án
Minh phụng –EFCO, Tân Trường Xanh. . . đã làm thiệt hại cho nhà nước hàng nghìn tỷ đồng. Những vấn đề đó cũng là do các cỏ quan quản lý của nhà nước
lỏng lẻo trong kiểm tra kiểm soát ,do vậy hoạt động kiểm toán cần phải phát huy
trách nhiệm của mình hơn nữa để giúp nhà nuớc ngăn chặn những thiệt hại
không đáng có.
Có thể nói kiểm toán độc lập có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị
trường, điều đó được thể hiện thông qua các tổ chức kiểm toán độc lập trên thế
giới ngày một hùng mạnh cả về số lượng các công ty kiểm toán, các kiểm toán
viên độc lập, về chất lượng các cuộc kiểm toán, đặc biệt phạm vi kiểm toán và tư
vấn ngày càng được mở rộng trong mọi lĩnh vực và mọi khía cạnh của nền kinh
tế, việc kiểm toán độc lập ra đời là một tổ chức trung gian độc lập khách quan
Phần 2: vai trò và ý nghĩa của kiểm toán độc lập đối với các doanh nghiệp trong
nền kinh tế quồc dân
I. ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán độc lập
1. Góp phần hướng dẫn ngiệp vụ, củng cố nề nếp hoạt động Tài chính kế
toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị nói chung
Hoạt động tài chính bao gồm các mối quan hệ đa dạng, luôn biến đổi
và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này
vào mục tiêu giải quyết tốt các quan hệ trên, mà cần thường xuyên soát xét lại
việc thực hiện để hướng các nhiệm vụ vào quỹ đạo mong muốn. Trong đó hoạt
động tài chính lại bao gồm nhiều mối quan hệ về đầu tư, kinh doanh, phân phối
và thanh toán. Tính phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi mối quan hệ
chặt chẽ giữa các quan hệ tài chính với lợi ích của mỗi người. Trong khi đó thông
tin kế toán là sự phản ánh hoạt động của tài chính, là sản phẩm của quá trình sử
lý thông tin bằng các phương pháp kỹ thuật đặc thù. Do đó nhu cầu hướng dẫn
nghiệp vụ và củng cố nền nếp trong quản lý tài chính càng đòi hỏi thường xuyên
và ở mức cao hơn.
Trong khi đó kiểm toán độc lập có chức năng tư vấn về Tài chính kế
toán sẽ giúp cho đơn vị tránh được những yếu điểm, khiếm khuyết trong quá
trình tổ chức thực hiện để có được hiệu quả về nền nếp tài chính ngày càng cao .
2.Tạo niềm tin cho những người quan tâm đến kết quả hoạt động. Đặc biệt
trong kinh tế thị trường có nhiều ngươig cần quan tâm tới tình hình Tài chính và
sự phản ánh của nó trong Tài liệu kế toán đó là:

nhưng vì lý do nào đó bị tai tiếng thì kiểm toán viên sẽ là người xác nhận, bảo vệ
cho họ. Nhận xét của những kiểm toán viên có uy tín sẽ làm tăng thêm tính pháp
lý của bản báo cáo tài chính và danh tiếng của doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp càng có lợi thế hơn trong sản xuất kinh doanh và thuận lợi trong quan hệ
tài chính với các đơn vị tài chính bên ngoài. Hơn thế nữa các Nhà quản trị doanh
nghiệp, các Nhà quản lý khác cần những thông tin trung thực không chỉ trên bảng
khai tài chính mà còn những thông tin cụ thể về tài chính về hiệu quả và hiệu
năng của mỗi bộ phận để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả
tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt
động quản lý.
-Người lao động, khách hàng, các Nhà cung cấp và những người quan
tâm khác cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh, tình hình tài chính của các
đơn vị như số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá,cơ cấu sản xuất và khả năng
thanh toán
Như vậy để có thông tin trung thực thì chỉ có qua kiểm toán mới có được.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của kiểm toán độc lập là hết sức
quan trọng.
II.Vai trò của kiểm toán độc lập đối với khách thể của kiểm toán độc lập ở
Việt nam
Theo thông tư số 22 TC/CĐKT (29/01/94) đã nêu rõ đối tượng của kiểm toán
độc lập chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngoài các
doanh nghiệp đối tượng của kiểm toán độc lập có thể là các đơn vị hành chính sự
nghiệp, các đoàn thể quần chúng các tổ chức xã hộivà các tổ chức quốc tế. Khi
các tổ chức này có nhu cầu hoặc cơ quan quản ký cấp trên, cơ quan thuế hoặc cơ
quan Nhà nước yêu cầu. Như vậy có thể nói đối tượng (khách thể) của kiểm toán
độc lập rộng hơn so với kiểm toán Nhà nước. Khi nền kinh tế thị trường phát
triển, các thành phần kinh tế các tổ chức kinh tế đa dạng và phức tạp, bên cạnh
đó mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, sự quan tâm đến tình hình tài chính của

hoá và hiện đại hoá đất nước nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, vững chắc lên Chủ
nghĩa xã hội . Do đó để thực hiện được những mục tiêu trên thì cơ chế quản lý kinh tế cũng phải được hoàn thiện cho phù hợp đặc biệt đó là nguồn vốn lớn lao
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Việt nam ta đã
phải trải qua nhiều cuộc khánh chiến trường kỳ đi lên xây dựng đất nước từ một
nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, công nghiệp nhỏ là chủ yếu với một cơ sở hạ tầng bị
chiến tranh tàn phá nặng nề đặc biệt trải qua một thời gian dài với cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp cho nên nền kinh tế vốn đã yếu kém càng trở lên khó
khăn hơn trước, từ những thực tế đó Đại Hội Đảng 6 (12/86) đã quyết định
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nuớc cùng với chinh sách mở cửa “Việt nam sẵn sàng làm bạn
với tất cả các nước trên thế giới” để nhằm thu hút sự đầu tư giúp đỡ của nước
ngoài, để đưa đất nước đi lên hoà nhập với nền kinh tế thế giới thông qua thực
hiện phân công lao động quốc tế. Chủ trương của Nhà nước là tăng tốc độ phát
triển kinh tế, đạt bình quân 400usd/1 người một năm vào cuối thế kỉ 20,muốn đạt
mục tiêu này thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đảm bảo đạt là 7% trở
lên và nhu cầu về vốn đầu tư phải có từ 4,2 tỷ usd trở lên cho mỗi năm tức là tích
luỹ phải đạt trên 22% thu nhập quốc dân hàng năm. Đây là con số tích luỹ vượt
quá khả năng nền kinh tế nước ta cho nên nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài
là nguồn bổ xung quan trọng để nước ta có thể đạt được 26,3 tỷ usd tổng sản
phẩm thu nhập năm 2000 đảm bảo gấp đôi thu nhập quốc dân năm 1990. Vì nếu
có vốn đầu tư nước ngoài có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và dịch vụ,
không những thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn giúp ta giải quyết tình trạng
thất nghiệp đang đè nặng nên nền kinh tế của đất nước. Hơn thế nữa thông qua
đầu tư của các nước phát triển chúng ta có điều kiện tiếp nhận những thành tựu
khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới nhờ đó có thể giảm bớt được khoảng cách
tăng trưởng cuả ta so với các nước .
Chỉ có dựa vào sự thu hút vốn đầu tư quốc tế chúng ta mới đủ khả năng

dụng chế độ kế toán Tài chính vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đòi hỏi cấp bách đặc biệt là kiểm toán độc lập trong lĩnh vực này cũng được nâng cao không chỉ đối với Việt nam mà còn đối với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư
vào Việt nam.
Điều 98 NĐ 18-CP ngày 16/3/1993 của chính phủ quy định chi tiết luật đầu
tư nước ngoài tại Việt nam đã quy định: “Báo cáo kế toán của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nuớc ngoài phải được công ty kiểm toán xác nhận trước khi gửi cho
Uỷ Ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư và cơ quan thuế trong vòng 3 tháng kể từ
ngày khoá sổ năm tài chính của doanh nghiệp”.
Điều 2 quy chế kiểm toán độc lập (ban hành kèm theo nghị định 07/cp ra
ngày 29/01/94 của chính phủ cũng đã quy định: “Báo cáo quyết toán của xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, xí nghệp tư doanh hoạt động theo lụât công ty, luật doanh nghiệp tư nhân
phải có xác nhận của kiểm toán độc lập mới có giá trị pháp lý”.
Thông tư 27 TC/CĐKT quy định : “Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam thì công việc kiểm toán được
thực hiện hàng năm. Báo cáo quyết toán gửi cho các cơ quan quản lý Nhà nước
phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp
pháp tại Việt nam hoặc một tổ chức kiểm toán độc lập khác được Bộ tài chính
chấp nhận”.
Đảng và chính phủ ta khuyến khích các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
áp dụng chế độ kế toán thống kê quy định tại pháp lệnh thống kê ngày 10/5/1988.
Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thực hiện chế độ kế toán và thống kê
theo những tiêu chuẩn và quy tắc phổ biến được Bộ tài chính và Tổng cục thống
kê chấp thuận và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính và thống kê Việt nam.
Qua đó thực trạng đã diễn ra một số vấn đề sau:
1. Một số các xí nghiệp đã coi nhẹ công tác thống kê kế toán đặc biệt là
công tác thống kê, hơn thế nữa có những xí nghiệp trong một thời gian dài không

toán độc lập ở Việt nam còn nhỏ bé đã làm cho nhiều người nước ngoài e ngại bỏ vốn đầu tư vào Việt nam. Một cố vấn của Ngân hàng thế giới nói “Chỉ khi nào
kiểm toán Việt nam có thể kiểm tra bảo đảm rằng vốn của Ngân hàng thế giới
đưa vào Việt nam được sử dụng đúng mục đích và có khả năng hoàn trả thì Ngân
hàng thế giới mới yên tâm bỏ vốn vào Việt nam ”. Nhiều chuyên gia trên thế giới
nhận định kiểm toán Việt nam phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo ra
môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tăng thêm lòng tin, khuyến khích
các doanh nghiệp có tiềm năng vào Việt nam hoạt động.
Như vậy kiểm toán Việt nam phải phát triển cả chiều rộng và chiều sâu mới
có đủ khả năng thực hiện đúng được yêu cầu cấp bách của các cá nhân và tổ chức
nước ngoài. Có thể nói họ yên tâm vào các kết quả được kiểm toán và sẽ lựa chọn
những lĩnh vực, phạm vi, khía cạnh để đầu tư vào Việt nam với mục đích thu
được hiệu quả và lợi nhuận lớn nhất. Do vậy nhà nước cũng phải có những biện
pháp thích hợp tạo điều kiện thuận lợi cho công việc đầu tư nước ngoài vào Việt
nam để có thể cải tiến nền kinh tế đất nước cho một tương lai tốt đẹp.

2.Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn

a. Công ty cổ phần
Nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với sự bung ra cuả các thành phần kinh tế
các doanh nghiệp có nhiều hình thức khác nhau: các tổ chức, đơn vị, hợp tác xã
tất cả cùng vận động trong cơ chế thị truờng. Sự tiếp cận đuợc lý thuyết về kinh tế
thị trường đã là một vấn đề nhưng còn khó hơn để làm sao vận hành lý thuyết đó
vào thực tế nhằm đưa hoạt động sản xuất kinh doanh đó có hiệu quả, giảm thiểu
những khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế thị trường Đó là mối quan tâm của
Nhà nước và chính các đơn vị kinh doanh do đó đơn vị kinh doanh cũng không
thể lơ là bỏ mặc trách nhiệm cho Nhà nước như trong cơ chế kế hoạch hoá tập


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status