LUẬN VĂN: Phân tích giá trị thặng dư về mặt chất và mặt lượng ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường - Pdf 12


LUẬN VĂN:

Phân tích giá trị thặng dư về mặt chất và
mặt lượng. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi
nghiên cứu vấn đề này đối với việc quản lý
các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường Phần mở đầu
Trong giai đoạn trước đây, không riêng Việt Nam mà cả các nước thuộc hệ
thống XHCN đã đồng nhất nền kinh tế thị trường với CNTB, phủ nhận các phạm trù,

thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
Chương II:
Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay
Chương III:
Một số gải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Phần nội dung

Chương 1:
Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này đối
với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
Cần phải nghiên cứu về giá trị thặng dư bởi sự tồn tại của giá trị thặng dư trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu khách quan. Có nghiên cứu
về giá trị thặng dư ta mới thấy rõ những đặc tính phổ biến của sản xuất và phân phối giá
trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường. Từ đó, tìm ra các giải pháp để vận dụng học
thuyết giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta,
theo mục tiêu đã được Đảng và Nhà nước ta vạch ra, làm dân giàu nước mạnh, xây dựng
thành công CNXH ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu về phạm trù giá trị thặng dư, Mác đã sử dụng nhuần nhuyễn phương
pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu. Người đã gạt bỏ đi những cái không bản chất
của vấn đề để rút ra bản chất của nó, đi từ cái chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ
thể và đặc biệt là việc sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học.
A. Mặt chất của giá trị thặng dư.
Đi từ sự phân tích “sự chuyển hoá của tiền thành tư bản” cùng với “sự chuyển hoá
sức lao động thành hàng hoá”, Mác đã chỉ rõ mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu tiền
và người sở hữu sức lao động là điều kiện để sản xuất ra giá trị thặng dư. Từ đó, Mác đi

- Trong công thức lưu thông H-T-H, tiền cuối cùng được chuyển thành hàng hoá, do đó
tiền bị chi tiêu hẳn. Ngược lại, trong hình thái T-H-T, tiền được chi ra để mua rồi
được thu lại sau khi bán, như vậy tiền trong công thức này chỉ được ứng trước mà
thôi. Tóm lại, giá trị sử dụng là mục đích cuối cùng của vòng chu chuyển H-T-H. Còn
động cơ, mục đích của vòng chu chuyển T-H-T là bản thân giá trị trao đổi.
Trong lưu thông T-H-T, điểm đầu và điểm cuối đều là tiền, chúng không khác nhau về
chất. Do đó, quá trình vận động này dường như là một việc thừa, vì nó là một việc đổi
một vật để lấy một vật giống hệt. Mà như ta biết, một món tiền chỉ có thể khác với một
món tiền khác về mặt số lượng, nên để quá trình T-H-T có được cái nội dung của nó thì
cần có sự khác nhau về lượng tiền ở điểm đầu và điểm cuối. Kết quả là qua lưu thông, giá trị (tiền) được ứng ra trước đó không những được bảo tồn mà còn tự tăng thêm giá trị.
Chính sự vận động ấy đã biến giá trị (tiền) đó thành tư bản.
- Mục đích của quá trình lưu thông H-T-H, là giá trị sử dụng, tức là nhằm thoả mãn những
nhu cầu nhất định. Như vậy, quá trình này là hữu hạn, nó sẽ kết thúc khi nhu cầu nào đó
được thoả mãn. Ngược lại, mục đích khi thực hiện quá trình lưu thông theo công thức T-
H-T là làm tăng giá trị ứng trước đó. Chỉ riêng điều này thôi đã khiến sự vận động của tư
bản theo công thức T-H-T là không có giới hạn.
Từ phân tích trên, Mác đã phân biệt một cách rõ ràng tiền thông thường và tiền là tư
bản. Tiền thông thường chỉ đóng vai trò trung gian trong lưu thông. Còn tiền là tư bản là
giá trị tự vận động, nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông, rồi lại trở lại lưu thông, tự duy trì và
sinh sôi nảy nở trong lưu thông, quay trở về dưới dạng đã lớn lên và không ngừng bắt đầu
lại cũng một vòng chu chuyển ấy, T-T’, tiền đẻ thành tiền (theo lời phái trọng thương).
T-H-T’, mới nhìn thì nó là công thức vận động của riêng tư bản thương nghiệp, nhưng
ngay cả tư bản công nghiệp và cả tư bản cho vay thì cũng vậy. Tư bản công nghiệp cũng
là tiền được chuyển hoá thành hàng hoá thông qua sản xuất, rồi lại chuyển hoá trở lại
thành một số tiền lớn hơn bằng việc bán hàng hoá đó. Tư bản cho vay thì lưu thông T-H-
T’ được biểu hiện dưới dạng thu ngắn lại là T-T’, một số tiền thành một số tiền lớn hơn.
Như vậy, T-H-T’ thực sự là công thức chung của tư bản.

công thức chung.
Để giải quyết vấn đề này ta phải đứng trên các quy luật của lưu thông hàng hoá và
lưu thông tiền tệ. Vấn đề cơ bản ở đây là nhà tư bản đã gặp ở trên thị trường một loại
hàng hoá đặc biệt qua tiêu dùng, giá trị của nó không những bảo toàn mà còn tăng lên đó
là hàng hoá sức lao động.
3. Hàng hoá sức lao động
(a) Sức lao động và điều kiện tạo ra hàng hoá
Sức lao động (hay năng lực lao động) bao gồm sức thần kinh, sức cơ bắp, thể lực
và trí lực tồn tại trong bản thân con người sống nó chỉ được bộc lộ qua lao động và là yếu
tố chủ thể không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất xã hội.
Nhưng để người sở hữu tiền có thể mua được sức lao động với tư cách là hàng hoá
thì sức lao động phải có hai điều kiện sau để trở thành hàng hoá:
- Một là: người lao động phảI được tự do về thân thể để tự do bán sức lao động của mình. Bởi vì, sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá,
khi nó được đưa ra thị trường, tức là bản thân người có sức lao động đó, đem bán nó. Mà
muốn vậy, thì người đó phải được hoàn toàn tự do về thân thể, tự do sở hữu năng lực lao
động của mình. Người sở hữu sức lao động bao giờ cũng phải bán sức lao động ấy trong
một thời gian nhất định mà thôi, vì nếu anh ta bán hẳn sức lao động đó trong một lần thì
anh ta sẽ tự bán bản thân mình, và từ chỗ là một người tự do anh ta sẽ trở thành người nô
lệ.
- Hai là: người lao động phảI bị tước hết tư liệu sản xuất muốn sống họ phảI bán sức lao
động của mình.
Bởi vì, khi một người còn có những hàng hoá khác (tư liệu sản xuất khác) để bán thì
anh ta sẽ không đem bán sức lao động của mình. Do vậy, chỉ khi người lao động không
còn tư liệu sản xuất nào khác, thì họ buộc phải đem bán chính sức lao động của mình để

người thay thế của anh ta)
- Chi phí đào tạo người công nhân tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động được đào
tạo.
 Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Hàng hoá sức lao động có điểm giống và điểm khác hàng hoá thông thường.
Điểm giống là ở chỗ: hàng hoá thông thường và hàng hoá sức lao động đều có khả năng
thoả mãn những nhu cầu nhất định của người mua nó.
Điểm khác là ở chỗ: nếu như hàng hoá thông thường khi đem sử dụng thì cả giá trị
và giá trị sử dụng đều bị tiêu hao theo thời gian, thì ngược lại, hàng hoá sức lao động khi
đem sử dụng, giá trị sử dụng càng tăng do người công nhân tích luỹ được kinh nghiệm
sản xuất.
Và giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động. Chính trong quá trình ấy, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá
trị bản thân nó, tức là tạo ra giá trị thặng dư.
II. Sản xuất ra giá trị thặng dư
Sau khi người sở hữu tiền đã mua được sức lao động của người sở hữu sức lao động,
thì người đó tiến hành tiêu dùng sức lao động. Mà việc tiêu dùng sức lao động là lao
động. Nên người mua sức lao động tiêu dùng sức lao động ấy bằng cách bắt người bán nó
phải lao động. Mà giá trị sử dụng của sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động, và trong quá trình ấy sức lao động tạo ra giá
trị thặng dư. Do đó, khi đi nghiên cứu về sản xuất giá trị thặng dư, ta sẽ bắt đầu nghiên
cứu từ quá trình lao động.
1. Quá trình lao động
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào tự nhiên
bắt tự nhiên phục vụ lợi ích của mình. Như vậy thì quá trình lao động sẽ là sự kết hợp của 3 yếu tố: sức lao động; đối tượng lao
động; tư liệu lao động. Trong đó:
- Sức lao động, như đã phân tích ở trên, thì đó là yếu tố cơ bản của quá trình lao động,
- Nền kinh tế tư bản chỉ là nền kinh tế tái sản xuất giản đơn.
- Giá cả không thay đổi.
- Không xét đến ngoại thương.
Ví dụ : Có một nhà tư bản kinh doanh ngành sợi để có sợi bán họ mua 20Kg
bông trị giá 20 USD. Tiền hao mòn máy móc là 3 USD, tiền thuê công nhân là 4 USD
(ngang bằng tư liệu sinh hoạt để họ sống trong 1 ngày) và giả sử họ kéo hết số bông trên
trong 4 giờ và mỗi giờ tạo ra 1 lượng giá trị mới là 1 USD. Việc mua bán trên là đúng giá
trị và trong đIều kiện sản xuất trung bình của xã hội.
- Quá trình sản xuất được tiến hành trong 4 giờ lao động với tư cách là lao động cụ thể
công nhân kéo hết 20kg bông thành sợi, giá trị của bông và hao mòn mýa móc được
lao động cụ thể của công nhân chuyển dịch và bảo tồn và giá trị của sợi hình thành ra
bộ phận giá trị cũ ( C) là 23 USD.
- Cũng trong 4 giờ lao động trên với tư cách là lao động trừu tượng, sức lao động của
công nhân tạo ra lượng giá trị mới (V + m) là 4 USD kết tinh vào giá trị của sợi.
Nhà tư bản đem số sợi trên ra thị trường bán đúng giá trị sẽ thu về 27 USD, họ ứng ra 27
USD lại thu về 27 USD, họ đạt được mục đích. Nhà tư bản suy nghĩ công nhân lao động
được trả tiền công họ cũng lao động nhưng không được gì, họ suy nghĩ công nhân được
trả 4 USD ngang bằng tư liệu sinh hoạt sống trong 1 ngày. Do đó, không thể chỉ lao động
bốn giờ mà nhiều hơn nữa 8 giờ chẳng hạn. 4 giờ sau nhà tư bản chỉ phảI mua 20kg bông
trị giá 20 USD hao mòn máy móc 3 USD. Kết quả sau 8 giờ lao động của công nhân nhà
tư bản đem số sợi trên ra thị trường bán đúng giá trị sẽ thu về được 54 USD, họ ứng ra 50
USD (40 USD bông, 6 USD hao mòn máy móc, 4 USD tiền công) 4 USD trội hơn đó là
giá trị thặng dư của nhà tư bản.
Cũng qua ví dụ trên, chúng ta thấy ngày lao động của người công nhân được chia
thành hai phần, một phần là thời gian lao động xã hội cần thiết (để tái sản xuất ra sức lao
động), một phần là thời gian lao động thặng dư ( phần thời gian tạo ra giá trị thặng dư).
Có hai phương thức sản xuất ra giá trị thặng dư, đó là: sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

suất lao động mà có. Chỉ khác ở chỗ: giá trị thặng dư tương đối do tăng năng suất lao
động xã hội, do đó, tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch
là do tăng năng suất lao động cá biệt, nên chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao
động cá biệt cao hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu
ngạch này.
Khi các doanh nghiệp đều ứng dụng công nghệ mới và hạ giá trị cá biệt của hàng
hoá thì giá trị thị trường sẽ giảm xuống, người tiêu dùng được mua hàng hoá rẻ hơn
trước, tức là giá của những tư liệu sinh hoạt giảm, nhờ đó sẽ hạ được thời gian lao động
xã hội cần thiết xuống, và nhà tư bản thu giá trị thặng dư tương đối. Do các doanh nghiệp đều có trình độ công nghệ như nhau nên không ai thu được giá trị thặng dư siêu ngạch
nữa, giá trị thặng dư siêu ngạch khi đó chuyển thành giá trị thặng dư tương đối.
Cần để ý rằng, máy móc (máy móc tiên tiến cũng vậy) không tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng
hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
B. Mặt lượng của giá trị thặng dư
Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, ở khối lượng
giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng dư.
I. Tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ tính theo phầm trăm giữa giá trị thặng dư và tư
bản khả biến (ký hiệu là m’).
Như vậy, ta có thể thấy tỷ suất giá trị thặng dư phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
phần ngày lao động cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động, và thời gian lao động thặng
dư. Mà dưới CNTB, phần thời gian lao động thặng dư là phần thời gian lao động không
công của người công nhân cho nhà tư bản. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình
độ (mức độ) bóc lột của nhà tư bản với công nhân, tức là nói lên sự bóc lột theo chiều
sâu. Để chứng minh cho kết luận này, ta hãy đi so sánh giá trị thặng dư và phần tư bản
trực tiếp sinh ra nó.
Nhà tư bản ứng trước một số tư bản là C để tiến hành sản xuất, tìm kiếm giá trị thặng dư,

v 4
Và theo phân tích trên thì m = lao động thặng dư
v lao động cần thiết
Công thức tỷ suất giá trị thặng dư : m’= lao động thặng dư , chỉ ra chính
lao động cần thiết
xác tỷ lệ giữa hai bộ phận cấu thành của ngày lao động. Nếu tỷ lệ đó là 100% , thì người
công nhân đã làm nửa ngày cho bản thân, và nửa ngày cho nhà tư bản.
Tóm lại, tỷ suất giá trị thặng dư đã biểu hiện chính xác mức độ tư bản bóc lột sức lao
động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người công nhân.
II. Khối lượng giá trị thặng dư
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng số tư
bản khả biến được sử dụng. Ký hiệu là M.
Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể được biểu hiện bằng công thức:
M = m’.V
(Trong đó, V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.) Nhìn vào công thức trên ta thấy,ở cùng một trình độ bóc lột (m’) nhất định, nếu nhà tư
bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng dư thu được sẽ càng
lớn. Như vậy,có thể kết luận là, khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô của sự bóc
lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng.
III. Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư
Chúng ta giả định rằng: hàng hoá được bán theo giá trị của nó, và giá cả sức lao
động có thể cao hơn giá trị của nó, nhưng không bao giờ thấp hơn giá trị của nó. Khi đã
giả định như thế thì sự thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư sẽ được quyết định bởi 3
nhân tố sau: một là độ dài của ngày lao động; hai là cường độ bình thường của lao động;
ba là sức sản xuất của lao động. Mà 3 nhân tố này có thể kết hợp với nhau để tạo ra sự
thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư.
1. Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không đổi (cho sẵn), sức sản xuất
của lao động thay đổi

làm cho giá trị của sức lao động giảm đi, mà tổng số giá trị không tăng lên (vì tuy khối
lượng sản phẩm tăng, nhưng giá trị của mỗi sản phẩm lại giảm đi tương ứng), do đó giá
trị thặng dư tăng lên.
3. Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay đổi, ngày lao động thay
đổi
Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút ngắn lại hay kéo
dài ra.
Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và cường độ lao
động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao động, hay không làm thay
đổi số thời gian lao động cần thiết, vì thế nó làm thời gian lao động thặng dư bị rút ngắn,
hay làm giá trị thặng dư giảm. Đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư giảm làm đại
lượng tương đối của nó so với đại lượng không đổi của giá trị sức lao động cũng giảm
xuống. Nên chỉ có bằng cách giảm giá cả của sức lao động xuống thì nhà tư bản mới
không bị tổn thất. Nếu không thì việc rút ngắn thời gian lao động bao giờ cũng gắn liền
với sự thay đổi của năng suất lao động và cường độ lao động.
Kéo dài thời gian lao động: Giả sử thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, hay giá trị
của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ và giá trị thặng dư là 4
đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và biểu hiện trong sản phẩm là 8 đồng. Nếu ngày
lao động được kéo dài thêm 2 giờ, và giá cả sức lao động không thay đổi, thì đại lượng
tương đối của giá trị thặng dư tăng lên cùng với đại lượng tuyệt đối của nó. Mà vì giá trị
của sức lao động không đổi, giá trị thặng dư lại tăng lên, do đó, đại lượng tương đối của giá trị sức lao động so với giá trị thặng dư sẽ giảm xuống. Như vậy, giá trị thặng dư tăng
lên là nguyên nhân làm đại lượng tương đối của giá trị sức lao động giảm. Khi kéo dài
ngày lao động cho đến một điểm nhất định, thì sự hao mòn sức lao động tăng lên, người
lao động cần nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để bù đắp hao mòn đó, do đó, giá cả của sức lao
động phải tăng lên, nhưng ngay cả khi giá cả của sức lao động có tăng lên thì giá trị của
sức lao động cũng giảm đi tương đối so với giá trị thặng dư.
4. Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường độ của lao động

ngoài toàn bộ tư bản ứng trước, gọi là lợi nhuận. Nhưng do phân công lao động, tư bản
cũng được chia thành tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay… nên
lợi nhuận cũng được chia thành những hình thái cụ thể như: lợi nhuận công nghiệp, lợi
nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô…
1. Lợi nhuận
Vì chi phí TBCN nhỏ hơn giá trị xã hội của hàng hoá cho nên nhà tư bản đem hàng
hoá của mình ra thị trường bán chỉ cần cao hơn chi phí sản xuất TBCN là họ đã thu được
1 khoản tiền lời. Họ gọi nó là lợi nhuận (p)
Theo Cac-Mac 1 khi mà giá trị thặng dư được đem so sánh với toàn bộ tư bản ứng
trước và được quan niệm như là con đẻ của tư bản ứng trước thì mang hình tháI biến
tướng là lợi nhuận
So sánh lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) ta thấy :
+ Về mặt lượng p >= , < m. ĐIều này còn tuỳ thuộc vào giá bán hàng hoá của nhà
tư bản trên thị trường. Nhưng trong toàn bộ nền kinh tế tư bản thì tổng p = tổng m
Về mặt chất : xuất hiện phạm trù lợi nhuật lại che dấu 1 bước quan hệ bóc lột TBCN.
2. Lợi nhuận thương nghiệp
Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp là: 1 phần của giá trị thặng dư mà nhà tư bản
công nhiệp đã bóc lột của công nhân làm thuê trong quá trình sản xuất và nhường lại cho
nhà tư bản thương nghiệp. Vì nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán
hàng cho nhà tư bản công nghiệp.
Vậy, vì sao mà nhà tư bản công nghiệp lại nhường một phần giá trị thặng dư của
mình cho nhà tư bản thương nghiệp? Lý do là: nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm
nhiệm khâu bán hàng, để nhà tư bản công nghiệp rảnh tay tập trung vào sản xuất. Nhờ đó
mà nhà tư bản công nghiệp rút ngắn được vòng tuần hoàn vốn (tư bản), từ đó thu được
nhiều lợi nhuận hơn. Hơn nữa, khi tham gia vào quá trình đó, nhà tư bản thương nghiệp
cũng phải ứng vốn ra để kinh doanh, do họ cũng muốn có lợi nhuận.
Nhường bằng cách nào? Nhà tư bản công nghiệp nhường bằng cách bán hàng hoá
cho nhà tư bản thương nghiệp với giá bán buôn hay giá trị công nghiệp, giá bán này nhỏ
hơn giá trị hàng hoá, bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp. Rồi nhà tư bản


Hơn nữa, như Ph. Ăng-ghen đã nói: “Nhờ hai phát hiện ấy (chủ nghĩa duy vật lịch
sử và lý luận giá trị thặng dư), chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học, và giờ đây
vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ
tương hỗ của nó”, điều đó có nghĩa là việc nghiên cứu về giá trị thặng dư không bao giờ là thừa. Đặc biệt, hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự thay đổi, có sự điều chỉnh
để bảo vệ cho chính mình, mà những chính sách điểu chỉnhh ấy đã làm cho sự bóc lột trở
nên ngày càng tinh vi hơn, bản chất bóc lột được che giấu. Nếu như không nghiên cứu về
lý luận giá trị thặng dư này và đặt nó trong tình hình mới, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý
luận giá trị thặng dư, cho phù hợp với tình hình mới, thì chúng ta rất dễ có những nghi
ngờ.
2. Việc nghiên cứu về mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư giúp chúng ta thấy
được thực chất của giá trị thặng dư, từ đó không đồng nhất giá trị thặng dư với sự
bóc lột, tránh có những nhận thức sai lầm về nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đang được áp dụng ở nước ta hiện nay
Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với
mục đích phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo từng bước xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sử dụng các hình thức và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh
thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội. Với mục đích đó thì vấn đề
đặt ra là các hoạt động kinh tế phải có lợi nhuận cao, mà lợi nhuận là hình thức biểu hiện
của giá trị thặng dư, để có lợi nhuận cao thì phải sản xuất ra một lượng giá trị thặng dư
cao tương ứng. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho ta những giải pháp để tăng
khối lượng giá trị thặng dư của nền kinh tế.
Nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ góp phần thay đổi nhận thức sai lầm trước đây về
giá trị thặng dư, coi nó là phạm trù riêng của CNTB, đồng nhất nó với sự bóc lột cần phải
xoá bỏ. Việc nghiên cứu sẽ cho nhận thức đúng rằng: “giá trị thặng dư là phạm trù chung

đã được xây dựng”. Đó là Đảng ta thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù và các quy luật
kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường, trong đó có phạm trù giá trị thặng dư. Mà
trong cương lĩnh thông qua tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
Đảng”. Thế có nghĩa là việc vận dụng lý luận về giá trị thặng dư của Mác vào sự hoạt
động của nền kinh tế nước ta đã được khẳng định. Trong các yêu cầu để vận dụng đúng
đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định:
khi vận dụng một quan điểm tư tưởng nào đó của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ mà tư tưởng, nguyên lý đó
phải giải quyết. Không thể chỉ dựa vào một tư tưởng, luận điểm nào đó mà không rõ bối
cảnh ra đời của nó như thế nào đã bê nguyên xi, vận dụng vào tình hình thực tiễn. Từ đó
cho thấy yêu cầu khi vận dụng lý luận giá trị thặng dư của Mác vào hoạt động của nền
kinh tế nước ta, là phải nghiên cứu để nắm vững lý luận này, như Đảng đã khẳng định.
Đại hội Đảng IX khẳng định: “phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Quan điểm đó chính là sự vận dụng những tư tưởng
của Mác về các giai đoạn phát triển kỹ thuật trong sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Để hạn chế bớt mặt tiêu cực của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư, đó là sự
phân hoá giàu nghèo, tình trạng cạnh tranh găt gắt, Đại hội IX cũng nhấn mạnh: “Thực
hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công
bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp
pháp.”
B. Thực trạng nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay
I. Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư hiện nay ở nước ta
Trong hơn 15 năm năm đổi mới qua, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và
nhà nước và góp phần vào việc xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách phát triển kinh tế,
nhiều cuộc hội thảo, cũng như nhiều công trình nghiên cứu (vận dụng)về học thuyết kinh

Song , chất lượng lao động, trình độ kỹ thuật và tay nghề của lao động Việt Nam còn
thấp, cơ cấu lao động giữa các ngành không hợp lý, lao động có hàm lượng chất xám cao
thiếu trầm trọng, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động không có việc làm cao. Khắc phục
hạn chế này, Đảng đã có nhiều chính sách trong công tác giáo dục và đào tạo để tăng chất
lượng của nguồn lao động, như: thực hiện phổ cập tiểu học, tiến tới phổ cập THCS; mở
thêm nhiều trường dạy nghề, và mở rộng hiềnh thức dậy nghề, chủ trương phân luồng
học sinh cuối cấp, phê phán tư tưởng chuộng bằng cấp. Nhằm nâng cao tay nghề cho
công nhân, tiến hành phân bố lại hợp lý cơ cấu lao động giữa các ngành. Hệ thống các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp được sắp xếp lại, thay đổi cách giảng
dạy, gắn việc học với thực hành. Hiện nay, nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, mức đầu tư
cho giáo dục so với các nước trong khu vực là khá khiêm tốn, năm 2000 mức đầu tư cho
giáo dục chiếm 15% tổng chi phí ngân sách nhà nước. Trước tình hình đó, Đảng đã chủ
trương: “xã hội hoá giáo dục nhằm đa dạng hoá các loại hình giáo dục, đào tạo với
phương châm, Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, chủ trương này đã phần nào khắc phục
được những khó khăn về chi phí. Với những chủ trương đó, chất lượng nguồn lao động
đã có những sự biến đổi so với trước đây.
2. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả
Trong sự nghiệp CNH, HĐH, nguồn vốn đầu tư luôn được quan tâm hàng đầu.
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương nhằm khuyến khích và thu hút nguốn vốn
đầu tư từ cả trong nước và nước ngoài.
Về khuyến khích đầu tư trong nước, việc công nhận và phân định rõ 6 thành phần kinh tế,
cũng như ban hành luật doanh nghiệp nhằm thu hút vốn trong các thành phần kinh tế,
đồng thời với chủ trương tự do trong kinh doanh, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành cũng có
sự chuyển dịch. Từ năm 1991, nguồn vốn đầu tư trong nước (vốn quốc doanh và vốn
ngoài quốc doanh) liên tục tăng, tổng vốn đầu tư trong nước năm 1991 mới là 11545 tỷ
đồng, đến năm 1996 là 54912 tỷ đồng, tăng gần 5 lần. Đến năm 1998, con số này là
72084 tỷ đồng, tăng gần 7 lần so với năm 1991 và tăng 31% so với năm 1996. Trong đó,
vốn đầu tư khu vực quốc doanh thường cao hơn khu vực ngoài quốc doanh, những năm
đầu thực hiện đổi mới, vốn đầu tư ngoài quốc doanh có sự tăng lên nhanh chóng. Trong
giai đoạn 1999 – 2001, tổng vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng, riêng năm 2001, tăng lên hơn

Tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng hoạt động đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế:
Cơ cấu vốn đầu tư cho ngành dịch vụ vẫn quá cao, trong khi công nghiệp và nông nghiệp
chưa được đầu tư một cách thoả đáng. Bởi phát triển dịch vụ sẽ không tạo ra được thế
mạnh căn bản cho chúng ta trên thị trường quốc tế. Muốn tạo được chỗ đứng cho mình
trên thị trường quốc tế, thì chúng ta phải có những sản phẩm hàng hoá mang thương hiệu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status