TIỂU LUẬN: Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm - Pdf 12

TIỂU LUẬN:
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ tại ngân hàng công
thương Hoàn Kiếm
LỜI MỞ ĐẦU

Với xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa như hiện nay, ngành ngân hàng đã đóng
một vai trò quan trọng và không thể thiếu đối với những chủ thể kinh tế. Ngân hàng vừa
đóng vai trò là chủ thể vừa là khách thể vừa là trung gian trong các lĩnh vực hoạt động của
mình. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ, do đó có những
điểm khác biệt với những doanh nghiệp khác.
Các doanh nghiệp trong nước ngày càng tham gia sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo, dầu thô, cà phê, ca cao, hạt điều, … và nhập khẩu các mặt
hàng thiết yếu như trang thiết bị máy móc, nguồn nguyên liệu đầu vào, … tất cả những
hoạt động này nếu không có ngân hàng sẽ khó thực hiện được hoặc thời gian thực hiện kéo

hàng công thương Hoàn Kiếm.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG
THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1 Những vấn đề chung về thanh toán quốc tế:
1.1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế
1.1.1.1 Cơ sở hình thành thanh toán quốc tế:
Với điều kiện tự nhiên, địa lý, trình độ phát triển và các yếu tố khác của mỗi nước
khác nhau sẽ hình thành nên những phạm vi và năng lực sản xuất xác định khác nhau. Một
quốc khá khó có thể sản xuất để đáp ứng những thứ mình cần. Do đó sự phụ thuộc vào
nhau giữa các quốc gia về các mặc hàng cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng là điều tất yếu.
Kết quả là các nước sẽ trao đổi hàng hóa cho nhau để theo những lợi thế so sánh

Khái niệm về thanh toán quốc tế: “Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa
vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cở sở các hoạt đọng kinh tế và phi
kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một
quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên
quan.”
Như vậy, khái niệm thanh toán quốc tế phục vụ cho hai lĩnh vực hoạt động là kinh tế
và phi kinh tế. Trên thực tế thì hai lĩnh vực này thường giao thoa với nhau. Hơn nữa, do
hoạt động thanh toán quốc tế được hình thành trên cơ sở hoạt động ngoại thương và phục
vụ chủ yếu cho hoạt động ngoại thương, chính vì vậy, trong các quy chế về thanh toán và
thực tế tại các NHTM, người ta thường phân hoạt động thanh toán quốc tế thanh hai lĩnh
vực rõ ràng, đó là: Thanh toán trong ngoại thương (hay thanh toán mậu dịch) và Thanh
toán phi ngoại thương (thanh toán phi mậu dịch)
Thanh toán quốc tế trong ngoại thương (thanh toán mậu dịch) là việc thực hiện
thanh toán trên cơ sở hàng hóa xuất nhập khẩu và các dịch vụ thương mại cung ứng cho
nước ngoài theo giá cả thị trường quốc tế. Cơ sở để các bên tiến hàng mua bán và thanh
toán cho nhau là hợp đồng ngoại thương.
Thanh toán quốc tế phi ngoại thương (thanh toán phi mậu dịch) là việc thực hiện
thanh toán không liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như cung ứng lao vụ cho
nước ngoài, nghĩa là thanh toán cho các hoạt động không mang tính chất thương mại. Đó là
việc chi trả các chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, các chi phí đi lại ăn ở của
các đoàn khách nhà nước, tổ chức và cá nhân; các nguồn tiền quà biếu, trợ cấp của cá nhân
người nước ngoài cho cá nhân người trong nước, các nguồn trợ cấp của một tổ chức từ
thiện nước ngoài cho tổ chức, đoàn thể trong nước…
Để hiểu rõ hơn về hoạt động ngoại thương ta hãy so sánh hoạt động này và hoạt động nội
thương. Nhìn chung, hoạt động ngoại thương liên quan đến:
- Người mua và người bán ở hai nước hoặc hai quốc tịch khác nhau;
- Đồng tiền sử dụng trong thanh toán có thể là nội tệ hay ngoại tệ đối với một hoặc cả

các quan hệ kinh tế với thế giới bên ngoài, các quốc gia đang đẩy mạnh phát triển kinh tế
thị trường, mở cửa và hội nhập. Và vì vậy, thanh toán quốc tế trở thành một cầu nối cần
thiết hơn bao giờ hết giữa nền kinh tế của một quốc gia với kinh tế thế giới bên ngoài. Sự
tồn tại và hình thành của thanh toán quốc tế có tác dụng bôi trơn và thúc đẩy hoạt động
xuất nhập khẩu không chỉ hàng hóa mà cả dịch vụ, đâu tư nước ngoài, thu hút kiều hối và
các quan hệ tài chính và tín dụng khác. Do đó, hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng
khẳng định được vị trí trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung và hoạt động kinh tế đối
ngoại nói riêng. Ngày nay, chiến lược kinh doanh của các nước là hướng ngoại, tìm được
những khách hàng tiềm năng và mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của mình trên toàn
thế giới.
Chúng ta thử tưởng tượng nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế thì quá trình
mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các tổ chức, các các nhân thuộc các quốc gia khác nhau sẽ
như thế nào? Chắc chắn rằng các hoạt động kinh tế quốc tế đó rất khó tồn tại và phát triển
được. Và nếu hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện một cách nhanh chóng, chính
xác, an toàn sẽ giải quyết được mối quan hệ thông thương hàng hóa – tiền tệ giữa người
mua và người bán một cách trôi chảy và hiệu quả.
Tóm lại, hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi
quốc gia; được thể hiện trên các mặt sau:
1. Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế như một tổng thể.
2. Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp.
3. Thúc đẩy và mở rộng hoạt động dịch vụ như du lịch, hợp tác quốc tế.
4. Tăng cường thu hút kiều hối và các nguồn lực tài chính khác.
5. Thúc đẩy thị trường tài chính quốc gia hội nhập quốc tế.

1.1.2.2 Ngân hàng thương mại với thanh toán quốc tế
Trong thương mại quốc tế, thông thường các nhà xuất nhập khẩu cũng có thể thanh
toán trực tiếp với nhau mà phải thông qua một trung gian đó chính là các ngân hàng thương

Khái niệm: Là phương thức thanh toán, trong đó nhà xuất khẩu sau khi hoàn thành
giao hàng thì ghi Nợ tài khoản cho bên nhập khẩu vào một cuốn sổ theo dõi và việc thanh
toán các khoản nợ này được thực hiện thông thường theo đinh kỳ như đã thỏa thuận.
Như vậy, về thực chất đây là phương thức thanh toán nợ còn khất lại.
Ví dụ: Trên cơ sở hợp đồng thương mại đã ký kết, sau khi giao hàng, người bán gửi
hóa đơn (cùng các chứng từ khác có liên quan) cho người mua để được thanh toán theo như
đã thỏa thuận. Ngoài giá trị và thời điểm thanh toán, trên hóa đơn còn có thể quy định việc
thưởng phạt là như thế nào nếu người mua thanh toán sớm hơn hay thanh toán chậm hơn so
với quy định. Trên cơ sở hóa đơn, người mua tiến hành thanh toán cho người bán theo lịch
đã định.
Từ khái niệm trên cho thấy, phương thức ghi sổ có các đặc điểm sau:
- Không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực
hiện thanh toán.
- Chỉ có hai bên tham gia thanh toán là người mở tài khoản và thực hiện thanh toán.
- Chỉ mở tài khoản đương biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người nhập khẩu
mở tài khoản để ghi thì tài khoản này chỉ là tài khoản theo dõi, không có hiệu lực
thanh quyết toán.
- Hai bên mua bán phải thực sự tin tưởng nhau.
- Dùng chủ yếu trong mua bán hàng đổi hàng hay cho một loạt các chuyến hàng
thường xuyên, định kỳ trong một thời gian nhất định
- Giá hàng trong phương thức ghi sổ thường cao hơn giá hàng bán trả tiền ngay
(chênh lệch là do yếu tố lãi suất và rủi ro tín dụng)
Hiện nay có khoảng 60% kim ngạch buôn bán giữa nước Anh và nước EU sử dụng
phương thức thanh toán ghi sổ: bởi vì, giữa các nước này có sự tương đồng về văn hóa, tập
quán kinh doanh, luật lệ, các khách hàng có mối liên hệ kinh doanh truyền thống, thường
xuyên, lâu dài và tin tưởng lẫn nhau.


- Người thụ hưởng (Beneficiary): Là người xuất khẩu, chủ nợ, người nhận vốn đầu tư,
người nhận kiều hối … do người chuyển tiền chỉ định
- Ngân hàng chuyển tiền (Remitting Bank): Là ngân hàng phục vụ người chuyển tiền.
- Ngân hàng trả tiền (Paying Bank): Là ngân hàng trả tiền cho người thụ hưởng và thường
là ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền.

1.1.3.3 Phương thức thanh toán nhờ thu:
Khái niệm: Nhờ thu là phương thức thanh toán, theo đó, bên bán (nhà xuất khẩu) sau khi
giao hàng hay cung ứng dịch vụ, ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng
từ thông qua ngân hàng đại lý cho bên mua (nhà nhập khẩu) để được thanh toán, chấp
nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác.
Như vậy, Nhờ thu là phương thức thanh toán quốc tế có ưu điểm cơ bản là đã dung hòa
được tính an toàn và rủi ro so với phương thức ứng trước và phương thức ghi sổ, nhưng lại
giảm được chi phí so với phương thức tín dụng chứng từ. Cụ thể:
- Phương thức ghi sổ: An toàn cho nhà nhập khẩu, nhưng rủi ro cho nhà xuất khẩu
- Phương thức ứng trước: An toàn cho nhà xuất khẩu, nhưng rủi ro đối với nhà nhập
khẩu
Trong khi đó, bằng cách sử dụng ngân hàng như một trung thu tiền hộ số tiền ở
người mua trả cho người bán, phương thức nhờ thu có thể:
- Giảm được rủi ro cho cả hai bên nhập khẩu và xuất khẩu.
- Hạn chế được sự chậm trễ trong việc nhận tiền đối với nhà xuất khảu và nhận hàng
đối với nhà nhập khẩu.
- Giảm được chi phí giao dịch so với tín dụng chứng từ.
Văn bản pháp lý điều chỉnh Nhờ thu
Quy tắc thống nhất về Nhờ thu (The ICC Uniform rules for collections) được phát
hành lần đầu bởi ICC vào năm 1956; sau đó, được tái bản vào các năm 1967,1978 và tái
bản sau cùng được Hội đồng của ICC chấp thuận vào tháng 6 năm 1995, với tiêu đề “ICC

- Tiếng Anh: Letter of Credit (L/C), Documentary Credit (D/C)
- Tiếng Việt: Thư tín dụng, tín dụng thư, tín dụng chứng từ, …
Về thuật ngữ :”Tín dụng – Credit”: Ở đây được dùng theo nghĩa rộng, tức “tín
nhiệm”, chứ không phải để chỉ “ột khoản cho vay” thoe nghĩa thông thường. Điều này
được thể hiện rõ trong trường hợp khi người nhập khẩu ký quỹ 100% giá trị của L/C, thì
thực chất NHPH không cấp bất cứ một khoản tín dụng nào cho người mở L/C, mà chỉ cho
người nhập khẩu “vay” sự tín nhiệm của mình. Ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu
không hề ký quỹ, thì một khoản tín dụng thực sự chỉ xay ra khi NHPH tiến hành trả tiền
cho nhà xuất khẩu và ghi nợ nhà nhập khẩu. Như vậy, thuật ngữ “Tín dụng” trong phương
thức tín dụng chứng từ chỉ thể hiện khoản “Tín dụng trừu tượng” bằng lời hứa trả tiền của
ngân hàng thay cho lời hứa trả tiền của nhà nhập khẩu, vì ngân hàng có hệ số tín nhiệm cao
hơn nhà nhập khẩu.
Qua phân tích cho thấy, trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng không chỉ
là người trung gian thu hộ, chi hộ mà còn:
- Là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, bảo
đảm cho nhà xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hóa mà họ đã
cung ứng.
- Là người bảo đảm cho nhà nhập khẩu nhận được số lượng và chất lượng hàng do bộ
chứng từ đại diện và tương ứng với số tiền mình bỏ ra.
Rõ ràng là, nhà nhập khẩu có cơ sở để tin chắc rằng, ngân hàng sẽ không trả tiền
trước khi nhà xuất khẩu giao hàng, bởi vì điều này đòi hỏi nhà xuất khẩu phải xuất trình bộ
chứng từ gửi hàng. Trong khi đó, nhà xuất khẩu tin chắc rắng sẽ nhận được tiền hàng xuất
khẩu nếu anh ta trao cho NHPH bộ chứng từ đầy đủ và phù hợp với quy định của L/C.

1.2.1.2 Đặc điểm của giao dịch L/C
- L/C là hợp đồng kinh tế hai bên:
Nhiều người lầm tưởng cho rằng, L/C là hợp đồng kinh tế ba bên, gồm: người yêu


-L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ:
Các ngân hàng, chỉ trên cơ sở chứng từ, kiểm tra việc xuất trình chứng để quyết định
xem trên bề mặt của chứng từ có tạo thành một xuất trình phù hợp hay không. Như vậy,
các chứng từ về việc giao hàng của người bán, là đại diện cho giá trị hàng hóa đã được
giao, do đó, chúng trở thành căn cứ để ngân hàng trả tiền, là căn cứ để nhà nhập khẩu hoàn
tiền trả cho ngân hàng, là chứng từ đi nhận hàng của nhà nhập khẩu … Việc nhà xuất khẩu
có thu được tiền hay không, phụ thuộc duy nhất vào xuất trình chứng từ có phù hợp; đồng
thời, ngân hàng cũng chỉ trả tiền khi bộ chứng từ xuất trình phù hợp, nghĩa là ngân hàng
không chịu trách nhiệm về sự thật của hàng hóa mà bất kỳ chứng từ nào đại diện.
Khi chứng từ xuất trình là phù hợp, thì NHPH phải thanh toán vô điều kiện cho nhà
xuất khẩu, mặc dù trên thực tế hàng hóa có thể không được giao hoặc được giao không
hoàn toàn đúng như ghi trên chứng từ. Như vậy, việc thanh toán L/C không hề căn cứ vào
tình hình thực tế của hàng hóa; nếu hàng hóa không khớp với chứng từ, thì hai bên mua
bán trực tiếp giải quyết với nhau trên cơ sở hợp đồng mua bán, không liên quan đến ngân
hàng. Chỉ trong trường hợp chứng từ không phù hợp, mà ngân hàng vẫn thanh toán cho
người xuất khẩu, thì ngân hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, bởi vì người nhập khẩu có
quyền từ chối thanh toán lại tiền cho ngân hàng.

-L/C yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của bộ chứng từ:
Vì giao dịch chỉ bằng chứng từ và than toán chỉ căn cứ vào chứng từ, nên yêu cầu
tuân thủ chặt chẽ của chứng từ là nguyên tắc cơ bản của giao dịch L/C. Để được thanh
toán, người xuất khẩu phải lập được bộ chứng từ phù hợp, tuân thủ chặt chẽ các điều khoản
và điều kiện của L/C, bao gồm số loại, số lượng mỗi loại và nội dung chứng từ phải đáp
ứng được chức năng của chứng từ yêu cầu.

- L/C là công cụ thanh toán, hạn chế rủi ro hay là công cụ từ chối thanh toán và lừa đảo?

- Bắt đầu tính hiệu lực của L/C
- Ngày phát sinh sự cam kết của NHPH với người thụ hưởng
- Ngày phát sinh trách nhiệm không hủy ngang của nhà nhập khẩu trong việc hoàn
trả cho NHPH thanh toán L/C
- Là mốc để nhà xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở L/C đúng hạn như
quy định trong hợp đồng ngoại thương hay không.
Thông thường, L/C được nhà nhập khẩu mở trước ngày giao hàng một thời gian
nhất định để nhà xuất khẩu có đủ thời gian cần thiết chuẩn bị hàng hóa gửi đi. Nếu L/C
được mở sớm thì có lợi cho người xuất khẩu có điều kiện tốt cho chuyến hàng gửi đi.
Nhưng ngược lại, nếu mở L/C quá sớm trước ngày giao hàng, thì bên nhập khẩu sẽ bị đọng
vốn vì phải ký quỹ khi mở L/C. Vì vậy, thời điểm mở L/C cần phải hợp lý cho cả hai bên
xuất khẩu và nhập khẩu.

Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến L/C:
- Người yêu cầu mở L/C:
- Người thụ hưởng
- Ngân hàng phát hành
- Ngân hàng thông báo
- Ngân hàng chiết khấu
- Ngân hàng xác nhận
Tên, địa chỉ của các bên có liên quan phải chính xác như quy định trong đơn xin mở L/C.

Số tiền của L/C (Credit amount)
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng chữ và phải thống nhất với
nhau. Nếu số tiền ghi bằng số và bằng chữ khác nhau thì người thụ hưởng phải làm thủ tục
tiến hành sửa đổi L/C. Gắn liền với số tiền là đơn vị tiền tệ và phải rõ ràng. Để tránh nhầm
lẫn, khi viết đơn vị tiền tệ nên tham chiếu tiêu chuẩn ISO về ký hiệu tiền tệ.
Ngày giao hàng (Shipment Date)
Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương mà ngày giao hàng cũng được quy định trong
L/C. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.

Những nội dung có liên quan đến hàng hóa:
Như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách, phẩm chất, bao bì … cũng
được ghi vào L/C. Để đảm bào bức điện được truyền đi một cách an toàn, chính xác và đầy
đủ, thì dung lượng bức ddiwwnj phải có giới hạn. Chính vì vậy, đối với những hợp đồng có
nội dung mô tả hàng hóa phức tạp, quá dài thì mục nội dung mô tả hàng hóa chỉ được thể
hiện vắn tắt trong bức điện, còn nội dung chi tiết sẽ được gửi bằng thư.

Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hóa:
Như điều kiện cơ sở giao hàng (FOB, CIF, …), nơi gửi và nơi giao hàng, cách vận
chuyển và giao hàng… cũng được ghi vào L/C

Bộ chứng từ mà nhà xuất khẩu phải xuất trình
- Đây là nội dung quan trọng của L/C, vì bộ chứng từ quy định theo L/C là bằng
chứng chứng minh người xuất khẩu đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng đúng như L/C đã
quy định.
- Nếu bộ chứng từ xuất trình phù hợp, thì NHPH sẽ thanh toán tiền hàng cho nhà
xuất khẩu.
- Bộ chứng từ do L/C quy định nhiều hay ít tùy theo tính chất hàng hóa, quy định
của nước nhập khẩu và sự thỏa thuận giữa hai bên mua bán, nhất là đối với người mua. Nội
dung quy định chứng từ bao gồm: Số loại chứng từ, số lượng mỗi loại, bản chính hay bản
sao, người phát hành…
- Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng thực hiện thanh toán trên cơ sở chứng từ, chứ
không dựa vào hàng hóa. Các chứng từ thương mại quốc tế rất quan trọng bởi chúng kiểm
soát sự vận động của hàng hóa. Nhà xuất khẩu có nhận được tiền hay không, và thanh toán

mình đối với L/C theo yêu cầu hoặc theo sự ủy quyền của ngân hàng phát hành.
- Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): Là ngân hàng mà tại đó L/C có giá
trị thanh toán hoặc chiết khấu, hoặc là bất cứ ngân hàng nào nếu L/C có giá trị tự do.
Ngân hàng được chỉ định bao gồm:
+ Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank)
+ Ngân hàng trả tiền (Paying Bank)
+ Ngân hàng chiết khấu (Negotiating Bank)
+ Ngân hàng chấp nhận (Accepting Bank)
+ Ngân hàng trả chậm (Bank by deferred payment)
Trách nhiệm kiểm tra chứng từ của ngân hàng được chỉ định giống như ngân hàng
phát hành khi nhận được bộ chứng từ của nhà xuất khẩu gửi đến.

1.2.4 Quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng thư chứng từ
Bước 1: Hai bên mua bán hợp đồng ngoại thương với điều khoản thanh toán theo
phương thức L/C.
Bước 2: Trên cơ sở hợp đồng các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ngoại
thương, nhà nhập khẩu làm đơn (theo mẫu) gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu phát
hành một L/C cho nhà xuất khẩu hưởng.
Bước 3: Căn cứ vào đơn xin mở L/C, nếu đồng ý, ngân hàng phát hành lập L/C và
thông qua ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của mình ở nước nhà xuất khẩu để thông báo
L/C cho nhà xuất khẩu.
Bước 4: Khi nhận được L/C, Ngân hàng thông báo thông báo L/C cho nhà xuất khẩu
Bước 5: Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận L/C thì tiến hàng giao hàng nếu không chấp
nhận thì đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng ngoại thương.
Bước 6: Sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của của L/C
và xuất trình ( Thông qua ngân hàng thông báo hoặc một ngân hàng khác) cho ngân hàng
phát hành thanh toán.

Advising Bank
Ngân hàn
g chuy
ển

chứng từ
Rermitting Bank
Nhà xu
ất
khẩu
Exporter
Nhà nh
ập khẩu

Importer

(4) Thông báo
L/C
Advise

(6) Xu
ất trình
chứng từ
Presenting

(9) Tr

tiền
Payment
(3)Phát hành

Contract
- Như vậy, khái niệm chuyển ở đây bao gồm chuyển nhượng quyền thực hiện L/C
và chuyển nhượng quyền được đòi tiền, tức quyền được ký phát hối phiếu đòi tiền theo
L/C. Quyền ký phát hối phiếu đòi tiền theo L/C chỉ được dành cho người hưởng lợi thứ
nhất hay một số người được chuyển nhượng của L/C. Như vậy, chuyển nhượng quyền ký
phát hối phiếu là khác biệt với quyền có thể chuyển nhượng các khoản thu được từ L/C cho
người khác hưởng.
- L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần.
- Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi ban đầu chịu
- Được sử dụng khi người hưởng lợi thứ nhất không tự cung cấp được hàng hóa mà
chỉ là một người môi giới.
- Sự chuyển nhượng phải được thực hiện theo L/C gốc
- Việc chuyển nhượng L/C không có nghĩa là hợp đồng mua bán cũng được chuyển
nhượng. Người hưởng lợi ban đầu vẫn là người chịu trách nhiệm chính với nhà nhập khẩu.
- Trường hợp người hưởng lợi thứ hai không giao hàng hay không giao đúng hàng
hay chứng từ không hoàn hảo, thì người hưởng lợi thứ nhất phải chịu trách nhiệm về phía
bên xuất khẩu theo hợp đồng đã ký.

1 2.4.2 L/C giáp lưng
Khái niệm: Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình hưởng, nhà
xuất khẩu căn cứ vào nội dung L/C này và dùng chính L/C này để thế chấp mở một L/C
khác cho người hưởng lợi với nội dung gần giống L/C ban đầu.
L/C được đem thế chấp gọi là L/C chủ hay L/C gốc (Master L/C hay Backing L/C);
L/C sau được gọi là L/C giáp lưng (Back to Back L/C) hay còn gọi là L/C đối, L/C phụ

1.2.4.3 L/C tuần hoàn:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status