nghiên cứu hiện trạng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng rừng nguyên liệu ván dăm bằng cây keo lai ở huyện đồng hỷ tỉnh thái nguyên - Pdf 13

1
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT : Số thứ tự
OTC : Ô tiêu chuẩn
FAO : Tổ chức nông lương thế giới
PAM : Dự án trồng rừng
ĐCP : Độ che phủ
TBKT : Tiến bộ kỹ thuật
PRA : Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia
VNĐ : Việt Nam đồng
USD : Đô la
D
1.3
: Đường kính tại vị trí 1 mét 3
H
vn
: Chiều cao vút ngọn
D
bq
: Đường kính bình quân
H
bq
: Chiều cao bình quân
D
T
: Đường kính tán
M : Trữ lượng
V
bq
: Thể tích bình quân
ĐT : Đông Tây

3
, trong đó gỗ rừng tự nhiên là 798 triệu m
3

6,4 tỷ cây tre nứa, rừng trồng là 73 triệu m
3
, chiếm 8,4% tổng trữ lượng gỗ.
(Bộ NN&PTNT, 2010) [2]. Tuy nhiên, sản lượng gỗ trên chủ yếu chỉ phục vụ
cho ngành chế biến giấy và gỗ ván sàn. Phần lớn gỗ dùng để chế biến các sản
phẩm đồ mộc đặc biệt là đồ mộc gia dụng và đồ thủ công mỹ nghệ vẫn phải
nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm 2011
của cả nước đạt 1,9 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2010 nhưng kim
ngạch nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đã là 605 triệu USD tăng 19,8% so với
cùng kỳ năm 2010 (Thông tấn xã Việt Nam, 2011) [36]. Điều này một lần nữa
khẳng định sự thiếu hụt nguyên liệu trong nước là đáng kể.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã đề
ra mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ đến năm 2020 đạt 7 tỷ USD. Tốc độ tăng
5
trưởng bình quân hàng năm của kim ngạch xuất khẩu gỗ vào khoảng trên
30%/năm, phấn đấu đến năm 2020 GDP lâm nghiệp đạt khoảng 2 - 3% GDP
quốc gia (Bộ NN và PTNT, 2007) [4]. Con số này cho thấy nhu cầu nguyên
liệu đầu vào cho các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tăng mạnh đến năm 2020.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, nhu cầu gỗ cho xây dựng và
các nhu cầu khác trên thị trường nội địa cũng được các chuyên gia dự báo là
sẽ liên tục tăng. Đáp ứng được nhu cầu gỗ ngày càng tăng của xã hội đồng
thời góp phần cải thiện phần nào khí hậu ngày càng khắc nghiệt như hiện nay,
ngành Lâm nghiệp đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp lựa chọn
các loài cây mọc nhanh và các biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh nhằm
nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.
Một trong những loài cây nguyên liệu có khả năng sinh trưởng nhanh

3
/ha/năm. Với
lượng tăng trưởng như vậy đã không đủ khả năng để đáp ứng nhu cầu về gỗ
nguyên liệu cho địa phương. Vì vậy cần phải nâng cao năng suất và chất lượng
gỗ rừng trồng. Để thực hiện được mục tiêu trên cần phải lựa chọn giống tốt,
điều kiện lập địa và đặc biệt là ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh phù hợp.
Xuất phát từ những yêu cầu trên tôi thực hiện đề tài:“Nghiên cứu hiện
trạng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng rừng nguyên liệu
ván dăm bằng cây Keo lai ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được kết quả ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong
trồng rừng nguyên liệu ván dăm bằng cây Keo lai ở huyện Đồng Hỷ - tỉnh
Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng áp dụng tiến bộ
khoa học kĩ thuật trong trồng rừng nguyên liệu ván dăm trong khu vực và các
vùng có điều kiện sinh thái tương tự.
- Tính toán và dự báo được hiệu quả kinh tế của một số mô hình trồng
rừng nguyên liệu ván dăm.
7
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các khu rừng trồng nguyên liệu ván dăm bằng Keo lai trên địa bàn
huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
- Cán bộ và người dân tham gia nhân giống và trồng rừng nguyên liệu
cho Công ty TNHH MTV VDTN.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các vườn ươm cây giống cung cấp giống trên của Công ty TNHH
MTV VDTN.
- Các khu rừng trồng nguyên liệu ván dăm ở các cấp tuổi điển hình 3,5,7.
1.4. Ý nghĩa của đề tài

0
vĩ độ Nam
- Độ cao so với mặt nước biển từ 0-600m
- Lượng mưa trung bình năm >800mm
- Chế độ mưa: Mưa mùa hè, mùa khô kéo dài 0 - 7 tháng
- Nhiệt độ trung bình năm >20
0
C
- Nhiệt độ tháng nóng nhất 37
0
C
- Nhiệt độ tháng lạnh nhất 6
0
C
- Nhiệt độ tối thấp từ 0-6
0
C
+ Đất đai: Loài Keo lai không kén chọn loại đất, chúng có thể sinh
trưởng trên nhiều loại đất khác nhau như: Đất acid, đất granit, feralit, đất xám,
đất đỏ, đất bồi tụ, đất nhiệt đới, đất thoát nước tốt, đất chua, đất nông, sét pha,
thịt nặng
- Cấu tượng: Trung bình, nặng
- Độ thoát nước tự do, úng theo mùa
- Phản ứng đất: đất chua
9
- Đặc biệt chịu được trên đất bạc mầu, có thể chịu được úng và có khả
năng cố định đạm.
So với đặc điểm khí hậu và đất đai ở vùng Đông Bắc Bộ nói chung và
khu vực tỉnh Thái Nguyên nói riêng thì cây Keo lai hoàn toàn phù hợp, có khả
năng sinh trưởng, phát triển tốt và đặc biệt khi áp dụng các biện pháp kỹ thuật

- Thực chất của trồng rừng thâm canh
Theo Nguyễn Xuân Quát (1995) [30] cho thấy: Thực chất của trồng
rừng thâm canh là mức độ đầu tư về tiền của và trí tuệ phải cao hơn trồng
rừng quảng canh và bán thâm canh.
Đầu tư ở đây, trước hết là đầu tư về tiền vốn cho trồng rừng, mọi khâu của
quá trình trồng rừng thâm canh cần phải có tiền vốn đầy đủ và hợp lý, tức là mức
vốn suất trồng rừng phải được tính toán đầy đủ từ khâu giống, trồng rừng, chăm
sóc, quản lý bảo vệ đến khi thiết kế khai thác từng diện tích rừng đó.
Đặc biệt, mấu chốt thành công của trồng rừng thâm canh có kết quả cao
lại là đầu tư cao về kỹ thuật, nhất là đối với giai đoạn đầu tư từ chọn điều kiện
lập địa, chọn cây, chọn giống, chăm sóc nuôi dưỡng và khai thác sử dụng rừng
trồng. Tốn nhiều tiền và công sức để làm gì nếu không thu được kết quả kinh tế
cao (lợi nhuận ròng trên một đơn vị diện tích cao) với giá thành sản phẩm là
thấp nhất, kể cả khi có được năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn.
Vì vậy, mọi tính toán trong quá trình trồng rừng thâm canh phải được
kết hợp chặt chẽ giữa kết quả kỹ thuật với kết quả kinh tế. Mặt khác nếu các
yêu cầu sinh lợi đều được thoả mãn, nhưng đất đai, môi trường lại bị suy thoái
thì không thể trồng lại được rừng nữa, hoặc năng suất, chất lượng rừng giảm
dần thì việc đầu tư thâm canh như vậy không thể gọi là thành công bởi vì như
thế mới giải quyết được nhu cầu trước mắt.
11
2.1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.1.2.1. Những nghiên cứu về cây Keo lai (Acacia hybrids)
Keo lai là tên viết tắt của giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng (Acacia
mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculifomis). Giống Keo lai tự nhiên này
được phát hiện đầu tiên bởi Messir Herbern và Shim vào năm 1972 trong số
các cây Keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah,
Malaysia. Năm 1976, M.Tham đã kết luận thông qua việc thụ phấn chéo giữa
Keo Tai tượng và Keo lá tràm tạo ra cây Keo lai có sức sinh trưởng nhanh hơn
giống bố mẹ. Đến tháng 7 năm 1978, kết luận trên cũng đã được Pedley xác

đoạn thân dưới cành, độ tròn đều của thân, đều tốt hơn giống bố mẹ và cho
rằng Keo lai phù hợp với các chương trình trồng rừng thương mại.
2.1.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng
Để trồng rừng đạt hiệu quả hơn, các nước trên thế giới và vùng nhiệt
đới người ta cần tiến hành phân chia nơi trồng rừng. Mục đích của việc phân
chia nơi trồng rừng là nhằm sử dụng một cách hợp lý. Trên cơ sở việc phân
chia nơi trồng rừng để chọn loài cây trồng và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh
chuẩn xác, nhằm tăng khả năng sinh trưởng và phát triển của rừng trồng, hạ
giá thành sản phẩm gỗ rừng trồng, đồng thời làm cho môi trường sinh thái
ngày một tốt hơn.
Người ta phân chia nơi trồng rừng dựa vào 2 nhóm nhân tố chính: Điều
kiện lập địa và trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng. Ví dụ: Theo Yang Jigao,
1995 nghiên cứu và phân chia ở Nam Quảng Tây - Trung Quốc đã phân chia
điều kiện lập địa thành 17 loại và các loài cây thích hợp với những điều kiện
lập địa ấy
13
Theo Vater (1925) thì: “Lập địa nên hiểu là tất cả các yếu tố ngoại cảnh
thường xuyên tác động tới sự sinh tồn và phát triển của thực vật” cũng có
nghĩa là lập địa bao gồm tất cả các yếu tố như: Khí hậu, địa hình, đất, sinh vật
tạo thành một quần lạc sinh địa. Tất cả các yếu tố trong quần lạc sinh địa có
ảnh hưởng qua lại, tác động lẫn nhau và phụ thuộc vào nhau, trong đó con
người có vai trò đặc biệt quan trọng. Có thể hiểu lập địa như là nơi mà cây
sinh sống và phát triển hay là phạm vi không gian chứa đựng tất cả các yếu tố
ngoại cảnh tác động đến đời sống thực vật.
Tập hợp các kết quả nghiên cứu ở các nước vùng nhiệt đới, tổ chức
nông lương thế giới FAO (1984) [41] đã chỉ ra rằng khả năng sinh trưởng của
rừng trồng, đặc biệt là rừng trồng nguyên liệu công nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan đến điều kiện lập địa là: Khí hậu, địa
hình, loại đất và hiện trạng thực bì.
Khi nghiên cứu về sản lượng rừng trồng Bạch đàn ở Brazil, Golcalves

3
/ha/năm, có nơi lên tới 70 m
3
/ha/năm (Campinhos và Ikemori, 1988).
2.1.2.4. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất rừng trồng
Bón phân cho cây trồng lâm nghiệp là một trong những biện pháp kỹ
thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng đặc biệt là ở những nơi
đất đai khô cằn, ít chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, chúng ta cần lựa chọn loại
phân và cách bón nào cho kết quả, liều lượng bón là bao nhiêu và nên bón vào
lúc nào cho phù hợp nhu cầu sinh lý của cây, cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây
sinh trưởng, bón ít mà thu lợi nhiều không gây lãng phí hoặc làm ô nhiễm hay
suy thoái môi trường. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới
quan tâm, điển hình như công trình nghiên cứu của Mello (1976) ở Brazil cho
thấy bạch đàn Eucaliptus sinh trưởng khá tốt ở công thức không bón phân
nhưng bón NPK thì năng suất có thể lên trên 50%.
Bolstand và cs (1988) [38] cũng đã tìm thấy một vài loại phân có phản
ứng tích cực mang lại kết quả như ở Potasium, phosphate, boron và magnesium.
Khi nghiên cứu bón phân cho rừng trồng Thông P.caribeae ở Cuba.
Herrero và cs (1988) [44] cũng cho thấy phân bón phosphate đã nâng
sản lượng rừng từ 56 lên 69 m
3
/ha sau 13 năm trồng.
Nhận xét: Từ các kết quả nghiên cứu trên đã khẳng định bón phân cho
rừng trồng mang lại những hiệu quả rõ rệt như: Nâng cao tỷ lệ sống, tăng sức
đề kháng của cây trồng, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm rừng trồng.
2.1.2.5. Ảnh hưởng mật độ đến năng suất rừng trồng
Theo Thoommson 1994, các loài Keo và Bạch đàn nên trồng với mật
độ 1111 cây/ha không ảnh hưởng xấu tới sản lượng và chất lượng gỗ.
15
Tác giả Evans.J.(1992), đã bố trí 4 công thức mật độ khác nhau (2985,

thuật hết sức khác nhau nên không thể ứng dụng một cách máy móc vào điều
kiện cụ thể nước ta.
2.1.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Cây Keo lá tràm và cây Keo tai tượng được nhập vào nước ta từ những
năm 1960 nhưng mãi đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước, giống Keo lai
mới được phát hiện và tập trung nghiên cứu từ các khâu chọn tạo giống cho
đến trồng rừng, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu điển hình sau:
2.1.3.1. Đặc điểm cây Keo lai (Acacia hybrids)
Ở Việt Nam, cây Keo lai tự nhiên được Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn
và các cộng sự thuộc Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (RCFTI) phát
hiện đầu tiên tại Ba Vì (Hà Tây cũ) và vùng đông Nam Bộ vào năm 1992.
Tiếp theo đó, từ năm 1993 cho đến nay Lê Đình Khả và các cộng sự đã
tiến hành nghiên cứu về cải thiện giống Keo lai, đồng thời đưa vào khảo
nghiệm một số giống Keo lai có năng suất cao tại Ba Vì (Hà Tây cũ) được ký
hiệu là BV; Trung tâm nguyên liệu giấy Phù Ninh - Phú Thọ cũng chọn lọc
được một số dòng được ký hiệu là BL.
Lê Đình Khả và các cộng sự [18,19,20,21] khi nghiên cứu về các đặc
trưng hình thái và ưu thế lai của cây Keo lai đã kết luận: Keo có tỷ trọng gỗ
và nhiều đặc điểm hình thái trung gian giữa hai loài Keo bố mẹ. Keo lai có ưu
thế lai về sinh trưởng so với Keo tai tượng và Keo lá tràm. Điều tra sinh
trưởng tại rừng trồng khảo nghiệm 4,5 năm tuổi ở Ba Vì (Hà Tây cũ) cho thấy
Keo lai sinh trưởng nhanh hơn Keo tai tượng từ 1,2 đến 1,6 lần về chiều cao
và từ 1,3 đến 1,8 lần về đường kính, gấp 2 lần về thể tích. Tại Sông Mây
(Đồng Nai) ở rừng trồng sau 3 năm tuổi Keo lai sinh trưởng nhanh hơn Keo lá
17
tràm 1,3 lần về chiều cao và 1,5 lần về đường kính. Một số dòng vừa có sinh
trưởng nhanh vừa có chỉ tiêu chất lượng tốt đã được công nhận là giống Quốc
Gia và giống tiến bộ kỹ thuật là các dòng BV5, BV10, BV16, BV32, BV33.
Khi nghiên cứu sự thoái hoá và phân ly của cây Keo lai, Lê Đình Khả (1997)
[21] đã khẳng định: Không nên dùng hạt cây Keo lai để gây trồng rừng mới.

18
Nhận xét: Xác định điều kiện lập địa thích hợp cho mỗi loài cây trồng
là một khâu quan trọng để nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.
2.1.3.3. Tiến bộ kỹ thuật trong công tác giống
Việt Nam đã có nhiều công trình và tác giả nghiên cứu để đưa tiến bộ
kỹ thuật vào áp dụng trong trồng rừng. Có tác giả dựa trên nền những cây đã
và đang được trồng rừng sản xuất ở Việt Nam, sau đó cải thiện giống (lai tạo,
cải tiến cách thức nhân giống ) để có được những giống cây rừng và phương
thức nhân giống tiến bộ làm cho cây trồng rừng phù hợp hơn với điều kiện tự
nhiên, có năng suất cao, chất lượng gỗ cao hơn.
Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng (2003) [17] cũng khẳng định rằng:
Trước đây, khi vụ đặt ra cho trồng rừng là “phủ xanh đất trống đồi núi trọc”
chúng ta đã không quan tâm đầy đủ đến công tác giống. Kết quả là chi phí cho
trồng rừng rất tốn kém, nhưng năng suất rừng trồng vẫn rất thấp và thậm chí
nhiệm vụ phủ xanh cũng không thực hiện được. Điều đó một mặt do lấy
giống xô bồ, không chọn loài cây và xuất xứ thích hợp, không chọn giống có
năng suất cao và có tính chống chịu sâu bệnh cũng như thích hợp với điều
kiện sinh thái ở từng vùng để gây trồng, mặt khác do thiếu áp dụng các biện
pháp kỹ thuật thâm canh đồng bộ.
Bộ NN&PTNT (2001) [5] thành tựu lớn nhất và được áp dụng rộng rãi
trong trồng rừng sản xuất trước hết phải nói đến công tác chọn và cải thiện
giống cây trồng lâm nghiệp. Đây là một lĩnh vực mũi nhọn được ưu tiên rất
cao cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong nhiều năm qua, mang lại
những bước nhảy vọt góp phần nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng,
đặc biệt đối với các loài cây mọc nhanh cung cấp nguyên liệu giấy như Keo
lai, Bạch đàn. Các thành tựu và tiến bộ trong lĩnh vực giống cây lâm nghiệp
đã được đúc kết thành hệ thống quy trình, quy phạm và tiêu chuẩn áp dụng có
hiệu quả trong sản xuất.
19
Lê Đình Khả (2006) [16] cho rằng: Giống là một khâu quan trọng nhất

cấp bách đối với sản xuất lâm nghiệp ở nước ta.
Bình luận: Cải thiện giống cây rừng phải xuất phát từ mục tiêu kinh tế
đặt ra cho mỗi loài mà nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đồng thời
phải phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi vùng, chống chịu được sâu bệnh
hại, mọc nhanh và đảm bảo được mục tiêu trồng rừng sản xuất nhưng đáp ứng
được tính bền vững trong sử dụng đất lâm nghiệp. Giải quyết tốt mối quan hệ
môi trường và xã hội, phát triển và ứng dụng được những tiến bộ vào sản
xuất, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học.
20
2.1.3.4. Tiến bộ kỹ thuật về lĩnh vực chọn loài cây trồng
Để có giống tốt, phù hợp với mục đích kinh tế trong trồng rừng sản
xuất và thích nghi với điều kiện đất đai, khí hậu của mỗi vùng thì chúng ta
phải chọn loài cây trồng rừng, đây là bước đầu tiên quan trọng trong chương
trình trồng rừng.
Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng (2003) [17] cho rằng: Loài là
nhóm các sinh vật có các đặc trưng hình thái và đặc điểm di truyền giống
nhau, có thể lai giống với nhau để cho đời sau hữu thụ. Mỗi loài thường có
khu phân bố địa lý sinh thái nhất định.
Ví dụ: Bạch đàn Eucalyptus regnans có thể cao hơn 90 mét với thân cây
thẳng hình trụ, còn Bạch đàn E. pyriformis lại là một cây có nhiều thân, ít khi
cao quá 6 mét loại gỗ và các tính chất khác cũng có sự khác biệt rất lớn giữa
các loài. Gỗ các loài như Tếch, Lát hoa, Cẩm lai rất có giá trị để đóng đồ gia
dụng, còn gỗ của các Bạch đàn, Thông, Keo thích hợp cho việc làm bột giấy,
ván dăm, gỗ chống hầm lò
Lê Đình Khả, Hà Huy Thịnh (2005) [16] cho đến nay đã có 67 giống
cây rừng lâm nghiệp được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật và giống quốc
gia, trong đó có các dòng Keo lai cao sản như: BV10, BV16, BV32, TB3,
TB5, TB6, TB12, KL2; Các dòng Bạch đàn cao sản như: U6, PN2, PN10,
PN14, PN46, PN47 và các dòng Phi lao có năng suất cao là 601 và 701 đã
được gây trồng rộng rãi ở nhiều nơi trong cả nước.

chưa được nghiên cứu kỹ;
(ii) Thiếu cơ sở kinh tế - xã hội nên chưa được sự quan tâm sử dụng
của người dân;
22
(iii) Nhiều loài cây trong danh sách đề nghị chưa có quy trình hoặc
hướng dẫn ký thuật gây trồng;
(iv) Rất ít thông tin về các loài cây bản địa. Hoặc: Cây trồng rừng chủ
yếu hiện nay đều là cây nhập nội mọc nhanh như: Keo và Bạch đàn, rất ít cây
bản địa được sử dụng cho trồng rừng kinh tế. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ
trong lĩnh vực cải thiện giống, nhìn chung giống sử dụng trong trồng rừng vẫn
rất xô bồ, kém chất lượng dẫn đến năng suất và chất lượng rừng còn thấp.
Chúng ta vẫn còn thiếu các vườn giống có chất lượng cao để cung cấp cho
nhu cầu trồng rừng.
2.1.3.5. Tiến bộ kỹ thuật về lĩnh vực nhân giống và tạo cây con
Giống là tư liệu sản xuất đặc biệt của công tác trồng rừng, bởi vì
giống là một tư liệu sinh vật, một thực thể sống. Giống cũng là một khâu
quan trọng nhất của sản xuất nông lâm nghiệp. Nhờ có giống được cải thiện
và áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh khác mà năng suất các loài cây
trồng tăng nhanh.
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2004) [27] cho rằng: Trồng rừng, phục hồi rừng
hiện đang là một nhu cầu cấp bách và là một nhiệm vụ lớn lao của ngành Lâm
nghiệp nước ta. Theo Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng tới năm 2010, hàng
triệu ha rừng trồng sẽ được thiết lập với tốc độ hàng trăm nghìn ha mỗi năm
cho các mục tiêu kinh tế khác nhau như cung cấp gỗ nguyên liệu cho công
nghiệp giấy, ván nhân tạo, gỗ xẻ xây dựng, gỗ trụ mỏ và cả đồ mộc
Trần Văn Con (2005) [8] khẳng định: Bên cạnh những thành tựu trong
lĩnh vực chọn và cải thiện chất lượng giống, kỹ thuật tạo cây con cũng đạt
được những thành tựu vượt bậc. Các kỹ thuật cây con có bầu trong vườn
vươm cho các loài cây trồng rừng chủ yếu như: Thông, Mỡ, Bồ đề, các cây
bản địa lá rộng khác đã phát triển và xây dựng quy trình quy phạm áp dụng

hầu khắp trên toàn quốc vì chúng có chu kỳ ngắn (khoảng 6 - 7 năm), đáp ứng
được các mục tiêu chọn loài cây trồng rừng sản xuất, lại có năng suất cao nếu
chúng ta thực sự trồng rừng thâm canh.
Công tác giống cây rừng hiện nay ở Việt Nam đang ngày càng đẩy
mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong công tác giống như chọn giống, lai
giống, vừa nhân giống vừa khảo nghiệm giống và cung cấp giống. Bên cạnh
đó nghiên cứu và tận dụng những thành quả đã có trong nước về chọn giống
và nhập thêm một số giống có năng suất cao của các nước có điều kiện sinh
thái tương tự để khảo nghiệm và làm đa dạng, phong phú thêm nguồn giống
cây rừng phục vụ cho việc đẩy nhanh trong tác trồng rừng.
Ngoài ra cần tận dụng tối đa giống từ các rừng giống đã được Bộ
NN&PTNT công nhận để nhân giống, đóng góp vào công tác chọn tạo
giống cho trồng rừng nhằm mục tiêu phủ xanh đất trống đồi trọc, tăng năng
suất, chất lượng và sản lượng rừng đáp ứng nhu cầu về gỗ ngày càng tăng
lên trong nước và xuất khẩu.
2.1.3.6. Tiến bộ kỹ thuật về trồng rừng
Những tiến bộ khoa học công nghệ lâm sinh phục vụ cho công tác
trồng rừng và phát triển ngành Lâm nghiệp đã được các viện khoa học, các
trường, trung tâm và các địa phương, cơ sở sản xuất tổng kết xây dựng và ban
hành gần 100 tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và hướng dẫn kỹ thuật lâm
sinh. Đáng chú ý nhất là quy phạm về giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng
sản xuất, quy phạm về thiết kế trồng rừng, xây dựng vườn giống, rừng giống
và chuyển hoá rừng giống, ngoài ra còn có hơn 50 quy trình, quy phạm,
hướng dẫn kỹ thuật tạo cây con trồng rừng, tái sinh chồi cho 40 loài cây, quy
25
trình tỉa thưa, phòng chống sâu bệnh hại cho một số loài cây và quy phạm
phòng chống cháy rừng.
Trần Văn Con (2005) [8] tổng kết về các thành tựu trong kỹ thuật trồng
rừng như sau: Các nghiên cứu về chọn loài cây trồng và lập địa thích hợp
trong trồng rừng đã ưu tiên nghiên cứu và đã có những thành tựu nhất định.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status