Đánh giá khả năng chịu hạn của tập đoàn giống lúa cạn thu thập tại các tỉnh miền núi phía bắc - Pdf 14

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BNNPTNT : Bộ Nông Nghiệp Phát Triển Nông Thôn
CRRI : Trung tâm nghiên cứu lúa
CIAT : Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế
CH : Chịu hạn
LC : Lúa cạn
TGST : Thời gian sinh trưởng
FAO : Tổ chức nông lương thế giới
IAC : Viện nghiên cứu nông nghiệp Saopaulo – Brazil
IRRI : Viện nghiên cứu lúa Quốc tế
IRAT : Viện nghiên cứu Nông nghiệp nhiệt đới
IITA : Viện Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế
QCVN : Quy chuẩn Việt Nam
IARCs : Viện nghiên cứu nông nghiệp quốc tế
UREDCO : Ban điều hành các trung tâm nghiên cứu lúa cạn
WARDA : West Africa Rice Development Association
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4
* Ý nghĩa khoa học của đề tài 4
* Ý nghĩa khoa học của đề tài 4
* Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 4
* Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 4
1.1.1.Một số khái niệm về lúa cạn và lúa chịu hạn 6
1.1.1.Một số khái niệm về lúa cạn và lúa chịu hạn 6
1.1.3. Khái niệm về hạn và phân loại hạn 9
1.1.3. Khái niệm về hạn và phân loại hạn 9
1.1.4. Khái niệm của tính chống, né (trốn), tránh, chịu hạn và khả năng phục hồi sau hạn 10

1.1.1.Một số khái niệm về lúa cạn và lúa chịu hạn 6
1.1.1.Một số khái niệm về lúa cạn và lúa chịu hạn 6
1.1.3. Khái niệm về hạn và phân loại hạn 9
1.1.3. Khái niệm về hạn và phân loại hạn 9
1.1.4. Khái niệm của tính chống, né (trốn), tránh, chịu hạn và khả năng phục hồi sau hạn 10
1.1.4. Khái niệm của tính chống, né (trốn), tránh, chịu hạn và khả năng phục hồi sau hạn 10
1.1.6. Ảnh hưởng của hạn đến sản xuất nông nghiệp và sinh trưởng của cây lúa 12
1.1.6. Ảnh hưởng của hạn đến sản xuất nông nghiệp và sinh trưởng của cây lúa 12
1.4. Đặc điểm thời tiết khí hậu vụ mùa năm 2012 tại Thái Nguyên 27
1.4. Đặc điểm thời tiết khí hậu vụ mùa năm 2012 tại Thái Nguyên 27
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 30
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 30
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu 30
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu 30
* Phương pháp bố trí thí nghiệm 30
* Phương pháp bố trí thí nghiệm 30
2.3.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 38
2.3.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 38
3.3. Đánh giá khả năng chống chịu hạn trong điều kiện chậu vại 60
3.3. Đánh giá khả năng chống chịu hạn trong điều kiện chậu vại 60
3.3.3. Đặc trưng bộ rễ của các dòng, giống lúa tham gia thí nghiệm 66
iv
3.3.3. Đặc trưng bộ rễ của các dòng, giống lúa tham gia thí nghiệm 66
1. Kết luận 71
1. Kết luận 71

v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay vấn đề lớn nhất của thế giới và là vấn đề chung của nhân

toàn cầu. Với tầm quan trọng như vậy, người ta đã hoạch định một thứ tự ưu tiên
cho đầu tư nghiên cứu tính chống chịu khô hạn, chịu mặn và chịu ngập úng
trong lĩnh vực cải tiến giống cây trồng trên toàn thế giới (Bùi Chí Bửu và cs,
2003) [1].
Cây lúa cạn năng suất thấp nhưng lại thể hiện tính ưu việt về khả năng
chống chịu hạn tốt, thích nghi cao với điều kiện sinh thái khó khăn, có chất
lượng gạo tốt, thơm, dẻo, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và có tiềm năng
phát triển để phục vụ cho xuất khẩu. Hiện nay các giống lúa được canh tác phân
tán, tự phát, chưa có khoanh vùng và định hướng phát triển làm cho nhiều giống
lúa cạn có chất lượng bị mất dần, diện tích trồng lúa bị thu hẹp. Việc đẩy mạnh
năng suất lúa ở các vùng thâm canh và vùng khó khăn luôn là phương hướng
chiến lược và mục tiêu cụ thể cho công tác chọn tạo và phát triển giống lúa. Đặc
biệt trong thời gian tới, những dự báo biến đổi khí hậu, nguồn nước tưới trong
nông nghiệp có thể giảm đi, diện tích đất cạn hoặc thiếu nước có thể tăng lên. Do
vậy, việc nghiên cứu và phát triển các giống lúa cho vùng khô hạn, thiếu nước là
hết sức quan trọng, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và xoá đói giảm nghèo
cho người nông dân ở những vùng có điều kiện khó khăn.
Xuất phát từ những vấn đề trên, để góp phần phát triển canh tác lúa cạn
ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, nhất là ở vùng cao và
sử dụng tiết kiệm nước…tạo điều kiện cho cây lúa phát triển tốt, đạt năng suất
cao và ổn định, chúng tôi tiến hành đề tài:
2
“Đánh giá khả năng chịu hạn của tập đoàn giống lúa cạn thu thập
tại các tỉnh miền núi phía Bắc”
3
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
* Mục đích
- Bước đầu đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng chống
chịu với điều kiện ngoại cảnh của tập đoàn giống lúa cạn thu thập tại các tỉnh
miền núi phía Bắc.

dụng giống lúa có khả năng thích nghi và chống chịu cao là một biện pháp tiết
kiệm chi phí hữu hiệu nhất. Chính vì vậy, để nâng cao và ổn định sản lượng lúa
trong điều kiện phụ thuộc nước trời, nhằm làm giảm thiệt hại do hạn hán gây ra thì
việc xác định, chọn tạo ra các giống lúa cải tiến có khả năng chống chịu và cho
năng suất ổn định đã trở thành một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay. Mặt
khác, tạo ra những giống lúa mang gen chịu hạn cũng là việc làm cần thiết cho cả
những vùng trồng lúa không có đủ điều kiện thủy lợi bởi vì tình trạng thiếu nước
có thể xảy ra ở hầu hết các vùng trồng lúa, theo thống kê có tới 90% diện tích
trồng lúa trên thế giới chịu ảnh hưởng của khô hạn trong vài giai đoạn sinh
trưởng.
Ở nước ta lúa cạn đã tồn tại từ lâu đời cung cấp một lượng lớn lương
thực cho nhân dân vùng cao. Đây là nguồn gen quí trong lai tạo và chọn
giống lúa do lúa cạn có những đặc tính nông học đặc biệt, khác với những
cây trồng khác giúp lúa cạn được phân bố rộng hơn. Qua nhiều nghiên cứu
về lúa cạn cho thấy lúa cạn được hình thành từ lúa tiên, phát triển theo
hướng chín sớm, có khả năng chống chịu tốt với hạn, nhất là hạn cuối vụ
5
mùa, chống chịu sâu bệnh và chịu đất nghèo dinh dưỡng, thích nghi cao với
điều kiện sinh thái khó khăn.
Nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt nước trong tương lai và giảm
thiểu được những thiệt hại về năng suất do hạn hán gây ra, trước hết cần
thông qua con đường hợp tác, trao đổi, tranh thủ khai thác nguồn gen quý của
các giống lúa địa phương cũng như giống nhập nội; nghiên cứu sâu hơn về di
truyền tính chống chịu hạn và hoạt động của các gen chống chịu.
Hiện nay diện tích đất một vụ lúa phụ thuộc hoàn toàn vào nước trời ở
nước ta còn rất lớn đòi hỏi cần có bộ giống thích hợp để thâm canh tăng vụ.
Và để đạt được năng suất cao trên các ruộng chủ động nước đã có nhiều giống
lúa được chọn tạo ra và có khả năng thích ứng rộng. Tuy nhiên những giống
có thể đạt được năng suất cao trong điều kiện thuận lợi nhưng vẫn duy trì tốt
năng suất trong điều kiện khô thì vẫn còn rất ít. Do đó việc đánh giá khả năng

hầu như không bao giờ được tưới thêm. Nước cho lúa chủ yếu do nước mưa
cung cấp và được giữ lại trong đất” (Vũ Thị Bích Hạnh, 2004) [2].
Theo Vũ Tuyên Hoàng và Trương Văn Kính (1995) [5], (Trần Nguyên
Tháp, 2001) [15] định nghĩa và phân vùng cây lúa cạn và chịu hạn theo loại
hình đất trồng ở nước ta như sau:
- Đất rẫy (trồng lúa rẫy, Upland rice hay Dry rice): nằm ở các vùng trung
du, miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và một phần của Đông Nam Bộ.
- Đất lúa thiếu nước hoặc bấp bênh về nước (loại hình cây lúa nhờ nước
trời hay Rainfed rice): nằm rải rác ở các vùng đồng bằng, trung du, đồng bằng
ven biển Đông và Nam Bộ, kể cả đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu
Long. Kể cả diện tích đất bằng phẳng nhưng không có hệ thống thuỷ nông hay
7
hệ thống thuỷ nông chưa hoàn chỉnh vẫn nhờ nước trời hoặc có một phần ít
nước tưới, ruộng ở vị trí cao thường xuyên mất nước.
Do điều kiện môi trường sống thường xuyên bị hạn hoặc thiếu nước
nên nhiều giống lúa cạn có khả năng chịu hạn tốt. Tuy nhiên, một số giống lúa
nước cũng có khả năng chịu hạn ở một số giai đoạn của chúng.
1.1.2. Nguồn gốc lúa cạn
Lúa nói chung và lúa cạn nói riêng là một trong những cây trồng cổ xưa
nhất của loài người. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của lúa trồng.
Nhiều ý kiến thống nhất cho rằng lúa trồng xuất hiện ở Châu Á cách đây 8000
năm. Tổ tiên trực tiếp của lúa trồng Châu Á (Oryza sativa L.) vẫn còn chưa có
những kết luận chính xác.
Lúa cạn được phát triển từ lúa nước để thích ứng được hạn hán. Lúa cạn
được phát triển theo hướng rút ngắn thời gian sinh trưởng, gieo sớm và chịu
được hạn, đặc biệt là hạn cuối vụ. Nhưng trước đó có thuyết cho rằng: lúa cạn
chỉ là do sự đột biến sinh thái dẫn tới, quá trình chọn lọc mà ra (còn gọi là
thuyết chọn lọc). Watt (1891) đã chia các giống lúa dại Ấn Độ ra 3 loại: Oryza
granulata, Ness; Oryza officinalis, Wall; Oryza sativa, Linn. Theo ông, chi
Oryza granulata phát sinh từ loại đất khô hạn và trên núi cao, còn gọi là mộc rễ

việc thiếu nước mưa thường xuyên là nguyên nhân chính gây nên hạn hán. Vấn
đề về thời gian mưa, khoảng cách thời gian giữa các lần mưa quyết định tới tính
chất hạn cục bộ hay hạn khốc liệt (Trần Nguyên Tháp, 20110) [15].
Theo Gulialep và ctv; Lê Khả Kế, Đào Thế Tuấn và ctv, đã chia hạn
thành 4 loại chính sau (Trần Nguyên Tháp, 2011) [15]:
- Hạn không khí: Do độ ẩm không khí thấp 10-20% gây nên sự héo tạm
thời cho cây, vì khi nhiệt độ không khí cao gây nên ẩm độ không khí giảm,
9
làm lượng nước bốc hơi dẫn đến các bộ phận non của cây bị thiếu nước. Nếu
hạn kéo dài dễ làm cho nguyên sinh chất bị đông kết và cây nhanh chóng bị
chết còn gọi là “cảm nắng”. Tác hại nhất là gió khô. Hạn không khí diễn ra
trong thời gian dài sẽ dẫn tới hạn đất.
- Hạn đất: Gây nên hạn lâu dài, cây thiếu nước, không có đủ nước để
hút, mô cây bị khô đi nhiều và sự sinh trưởng trở lên rất khó khăn; hạn đất
luôn gây nên sự giảm thu hoạch, nếu hạn sớm có thể dẫn đến mất trắng,
không cho thu hoạch.
- Hạn kết hợp: Khi có sự kết hợp cả hạn đất và hạn không khí thường
gây nên hạn trầm trọng, nếu kéo dài có thể làm tổn hại lớn đến cây trồng.
- Hạn sinh lý: Khi có đầy đủ nước mà cây vẫn không hút được nước có
thể do: nhiệt độ quá thấp, hoặc phần xung quanh rễ có quá nhiều chất gây độc
cho rễ hoặc nồng độ dinh dưỡng xung quanh vùng rễ quá cao.
Theo số liệu tổng lượng mưa nhiều năm, thời gian phân bố mưa và ẩm
độ ở các tháng của nước ta so sánh với bảng phân loại hạn của D.P.Garrity
1984 thì hạn ở Việt Nam chủ yếu là hạn đất và thường xảy ra ở các vùng có
lượng mưa trung bình rất thấp, kéo dài nhiều tháng trong năm như các tỉnh
miền Trung, Tây Nguyên…vào mùa khô. Hạn không khí đôi khi cũng xảy ra
nhưng cục bộ ở các vùng có gió khô và nóng như gió mùa Tây Nam của các
tỉnh miền Trung, mùa khô ở Tây Nguyên hoặc đôi lúc gió mùa Đông Bắc
cũng có độ ẩm không khí thấp ở các vùng khác diễn ra trong thời gian ngắn
(Trần Nguyên Th áp, 2011) [15].

nước qua khí khổng
- Khả năng duy trì sự cung cấp nước thông qua bộ rễ phát triển, ăn sâu,
mật độ rễ cao; có khả năng giảm thế thẩm thấu bằng tích luỹ chất vô cơ, hữu
11
cơ. Có khả năng duy trì tính nguyên vẹn về cấu trúc và chức năng sinh lý của
tế bào và các cơ quan tử, đảm bảo độ nhớt và tính đàn hồi của chất nguyên
sinh. Ngoài ra khả chịu hạn còn thông qua thời gian sinh trưởng ngắn giúp
cây có thể né tránh được hạn cuối vụ, hoặc đầu vụ. Như vậy khả năng chịu
hạn của lúa cạn phụ thuộc vào giống và chịu tác động bởi yếu tố ngoại cảnh
như khí hậu, đất đai. Việc nghiên cứu lựa chọn các giống lúa cạn thích hợp
cho từng vùng là một yêu cầu cấp thiết để tăng năng suất lúa cạn.
1.1.6. Ảnh hưởng của hạn đến sản xuất nông nghiệp và sinh trưởng của cây lúa
Khô hạn là yếu tố quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến an toàn lương
thực của nhân loại và điều này đã nhiều lần xảy ra trong quá khứ trên những
phạm vi rộng hẹp khác nhau. Hạn hán làm giảm năng suất cây trồng, làm
giảm diện tích gieo trồng và sau đó làm giảm sản lượng cây trồng mà chủ yếu
là sản lượng lương thực. Khi hạn xảy ra, con người đẩy mạnh thuỷ lợi và các
đầu tư khác, đồng nghĩa với tăng chi phí sản xuất nông nghiệp, do đó làm
giảm thu nhập của người lao động nông nghiệp, đồng thời kéo theo một loạt
các hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng như bệnh tật và đói nghèo
Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều của yếu
tố thời tiết khí hậu. Hạn luôn là mối nguy lớn, đe doạ và gây ra nhiều thiệt hại
cho đời sống và sản xuất nông nghiệp. Theo Cục Thủy lợi, từ năm 1960-2005
hạn hán nặng đã làm ảnh hưởng đến vụ đông xuân các năm 1959, 1961, 1970,
1984, 1986, 1993, ảnh hưởng tới vụ mùa các năm 1960, 1961, 1963, 1964,
1983, 1987, 1988, 1990, 1992, 1993. Tuy nhiên, năm được đánh giá hạn nặng
nhất trong vòng 45 năm qua là năm 1998 làm thiệt hại trên 5.000 tỉ đồng.
Nguyên nhân hạn chủ yếu do mùa mưa kết thúc sớm hơn mọi năm khoảng
một tháng nên lượng mưa chỉ đạt 50-70% so với trung bình nhiều năm.
Cùng với việc thiếu hụt lượng nước mưa, nhiệt độ các tháng đầu năm

Lúa cạn chiếm tỷ trọng không lớn so với diện tích lúa thế giới. Năm
1974 là 22,7 triệu ha. Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 150 triệu ha trồng
lúa cung cấp trên 600 triệu tấn thóc mỗi năm, trong đó vùng trồng lúa được
tưới thường xuyên vào khoảng 79 triệu ha (chiếm 52,7 %), diện tích trồng lúa
bị hạn là 54 triệu ha (chiếm 36%), diện tích đất dốc được tưới tràn là 11 triệu
ha (chiếm 7,33%) và diện tích lúa cạn là 14 triệu ha (chiếm 9,33%) ( Nguyễn
Thị Lẫm và cs, 2003) [9].
Diện tích lúa cạn phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở Châu Á,
Châu Mỹ La Tinh và Châu phi. Năng suất lúa cạn trên thế giới còn thấp, bình
quân đạt 1 tấn/ha. Những vùng thuận lợi ở Châu Mỹ Latinh có thể đạt 2,5
tấn/ha (Nguyễn Đức Thạnh, 2000) [14].
Trong từng khu vực, diện tích gieo trồng lúa cạn ở các nước cũng khác
nhau. Những nước trồng nhiều như Ấn Độ, Brazil, Indonesia, Bangladesh. Về tỷ
lệ diện tích lúa cạn so với lúa nước ở từng quốc gia cũng khác nhau, có nước
trồng 100% diện tích lúa cạn như Liberia, Togo (96%), Venezuela (90%),…
(Nguyễn Đức Thạnh, 2000) [14]. Ở Châu Á khoảng 50% đất trồng lúa là canh
tác nhờ nước trời, mặc dù năng suất lúa ở những vùng có tưới đã tăng gấp 2 đến
3 lần so với 30 năm trước đây, nhưng ở vùng canh tác nhờ nước trời năng suất
tăng lên ở mức rất nhỏ, bởi vì những vùng này sử dụng giống lúa cải tiến rất khó
khăn do môi trường không đồng nhất và biến động. Một phần bởi vì có rất ít
giống lúa chịu hạn (Fischer. S.K và cs, 2003) [20].
Về đất đai, lúa cạn thường được trồng phổ biến ở các vùng nhiệt đới,
nơi mà độ màu mỡ của đất đã bị giảm rất nhanh do canh tác trên độ dốc cao
lại vào mùa mưa dễ bị xói mòn rửa trôi.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất lúa cạn trên thế giới
Châu lục trên thế giới Diện tích (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn)
Châu Á 12.000 11.793
Châu Mỹ Latinh 6.725 8.820
14
Châu Phi 2.000 1.023

như: Châu Phi, Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ La Tinh với sự hợp tác của các Trung
tâm và Viện nghiên cứu nông nghiệp trên thế giới như: IRAT, IITA …
Tại Châu Phi, chương trình cải tiến giống lúa được thực hiện qua các
chương trình của quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế: IRAT, IITA. Các
chương trình cải tiến giống lúa cạn được tiến hành tại Nigeria, Ghana và Siera
Leone từ trước khi viện nghiên cứu nông nghiệp quốc tế IARCs (The
International Agriculture Research Centres) được thành lập.
Lúa cạn cũng được nghiên cứu tại Viện nghiên cứu lương thực ở
Kumasi, Ghana và trạm nghiên cứu nông nghiệp Kpong, Ghana.
Tại Nigeria viện nghiên cứu cây ngũ cốc ở Ibadan đã đi tiên phong
trong việc lai tạo giống lúa cạn. Năm 1958 giống lúa thuần chủng FARO3
được chọn lọc từ giống địa phương Agbede 16/56 đã được thử nghiệm tại
miền Trung Nigeria. Đó là giống lúa cạn có năng suất cao trung bình và có
khả năng chống chịu bệnh đạo ôn tương đối khá.
Năm 1979 Viện nghiên cứu nông nghiệp nhiệt đới (IITA) bắt đầu
chương trình cải tiến giống lúa cạn trong đó nhấn mạnh các giống lúa cạn có
tiềm năng năng suất cao, kiểu cây cải tiến, khả năng chống chịu với điều kiện
bất thuận tốt như: chịu hạn, kháng bệnh đạo ôn, khô vằn, ngoài ra còn thích
ứng tốt với các điều kiện môi trường khác nhau (Gupa S.K và cs, 1980) [21].
Chương trình này được triển khai với mục đích để tăng cường khả năng sản
xuất lúa tại Châu Phi và giúp đỡ các quốc gia sản xuất lúa.
Trong hơn 5.000 giống được chọn lọc từ Châu Phi và nhiều khu vực
khác thì các giống: ITA 116, ITA 117, ITA 118, ITA 120, ITA 135, và ITA
16
235 có khả năng chịu hạn và chống chịu bệnh đạo ôn tốt, được thử nghiệm tại
Ibadan và Zaria (Fischer. S.K và cs, 2003) [20].
Các giống: ITA 116, ITA 117, ITA 118, ITA 120, ITA 135 và ITA 235
có khả năng chịu đất chua rất tốt.
Năm 1981, giống ITA 117 cho năng suất trung bình 30 tấn/ha trên
ruộng thí nghiệm tại WARDA.

Indonesia, Thái Lan và Philippines. Chương trình này được bắt đầu từ Ấn Độ
vào năm 1946 khi Trung tâm nghiên cứu lúa được thành lập (CRRI).
Năm 1982 CRRI hợp tác với IRRI đánh giá một số giống lúa cạn gồm:
IR 5931- 10-1, IR 6023-10-1-1, Seratus Malan, UPLRi-5, tại 10 điểm thí
nghiệm trong đó giống BR 203-26-2 đạt năng suất cao nhất là 1,8 tấn/ha.
Tại Philippines trong những năm 1970 trường Đại học tổng hợp Losbanos
đã phát triển một số giống như: UPL RI-3, UPL RI-5 và UPL RI-7 là những
giống cao cây, khả năng đẻ nhánh trung bình, chất lượng gạo tốt. Một vài giống
mẫn cảm với bệnh đạo ôn nhưng có khả năng phục hồi sau hạn tốt và có hệ
thống rễ phát triển tốt, cho năng suất tới 4 tấn/ha (Gupa S.K và cs, 1980) [21].
Tại Thái Lan, từ đầu những năm 1950 đã thu thập, tinh lọc và làm
thuần các giống địa phương và đã đưa ra hai giống lúa tẻ là Muang Huang
và Dowk Payom và được trồng phổ biến ở miền Nam. Các giống này có
khả năng cho năng suất đạt 2 tấn/ha và giống lúa nếp Sew Meajan trồng ở
miền Bắc đạt năng suất 2,8 tấn/ha có khả năng chịu rét tốt khi đưa lên vùng
cao. Cả ba giống này đều là giống cổ truyền địa phương. Tại Nhật Bản,
diện tích trồng lúa cạn được gieo trồng là 184 nghìn ha. Việc nghiên cứu
chọn lọc lúa cạn ở Nhật Bản bắt đầu từ năm 1929 và có khoảng 50 giống
đã được tinh lọc, phát triển từ nguồn lúa cạn cổ truyền. Người ta bắt đầu
18
thử tính chịu hạn trong các giống Indica và Japonica nhiệt đới (năm 1978)
đối với sự biến đổi tính di truyền và tìm thấy một số giống Indica cổ truyền
chịu hạn. Các giống Kantomochi 168 được bồi dục năm 1991 và
Kantomochi 172 được bồi dục năm 1992. Kantomochi 168 được lựa chọn
từ JC 81 và Normochi 4, Kantomochi 172 được chọn tạo từ IRAT 109 và
giống lúa cạn Nhật Bản (Gupa P.C và cs, 1986) [22].
Tại viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI), chương trình cải tiến giống lúa
cạn bao gồm những nghiên cứu ngay tại IRRI – Los Banos và sự hợp tác với
các chương trình nghiên cứu của các Quốc gia và các tổ chức quốc tế như:
IITA, WARDA, IRAT và CIAT. Nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu tại các

hợp với các vùng sinh thái yếu nhạy cảm với quang chu kỳ.
- Giữ được những đặc tính nông học tốt: bông dài, phơi màu tốt, dinh dưỡng
bông cao, hạt không hở, phẩm chất hạt tốt, cơm dẻo, ổn định về mặt di truyền.
- Nâng cao tính chịu sâu bệnh từ các vật liệu cải tiến (chủ yếu là các
giống bán lùn). Các đặc điểm nổi bật là chống chịu bệnh đạo ôn, khô vằn,
đốm nâu, sâu đục thân, rầy lưng trắng, sâu cuốn lá và tuyến trùng…
- Duy trì và nâng cao tính chống chịu với các yếu tố bất thuận của đất
như thiếu lân, thừa nhôm, mangan…
Năm 1979 Suichi Yoshida trong cải tiến các đặc điểm giống cho các
điều kiện bất thuận cho rằng (Suichi Yoshida,1981) [13]:
Đối với các nhà chọn giống việc biết được điều lợi và mặt hại của các đặc
điểm tương phản của cây lúa là rất quan trọng vì mỗi một điểm có lợi hoặc bất
lợi trong các điều kiện khác nhau thì tác động đến cây lúa cũng không giống
nhau và không giống lúa nào có thể đáp ứng được tất cả các điều kiện sinh thái.
1.2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa cạn ở Việt Nam
1.2.2.1. Tình hình sản xuất lúa cạn ở Việt Nam
20


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status