Tiểu luận thị trường tài chính: Thị trường mở Việt Nam thực trạng và xu hướng phát triển trong giai đoạn hiện nay - Pdf 14

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Ñeà taøi:
THỊ TRƯỜNG MỞ VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG
PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY GVHD: PGS.TS: NGUYỄN ĐĂNG DỜN
Lớp: NHĐ2, K16
Nhóm 3:
Vũ Mạnh Tư
Hà Thị Anh Đào
Nguyễn Thị Thu Hương
Lê Ngọc Hân
Phạm Kim Thông
Bùi Thị Hạnh
Lê Thị Quỳnh Trang

2.1 Tình hình kinh tế vĩ mô 15
2.2 Cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động của N VTTM 17
2.3 Tình hình huy động vốn qua các năm 18
2.4 Các thành viên tham gia N VTTM : 22
2.5 Đánh giá hoạt động của NVTTM trong thời gian qua 23
CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
ĐẾN NĂM 2010 26
3.1 Các giải pháp về tạo môi trường hoạt động cho NVTTM: 26
3.2 Các giải pháp về vận hành NVTTM : 29
3.3 Các giải pháp hỗ trợ cho NVTTM : 33
PHẦN KẾT LUẬN 35 TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Lời nói đầu
Trang 1

LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện thành công việc cải cách kinh tế,
bước đầu đã đạt được những kết quả đáng kể, trong đó chính sách tiền tệ đóng vai trò
quan trọng trong việc điều tiết lượng tiền lưu thông, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế,
kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và giảm thất nghiệp.
Tuy nhiên sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đòi hỏi việc điều chỉnh chính sách
tài chính tiền tệ cũng phải có những thay đổi thích ứng, việc dùng những công cụ gián
tiếp, nhất là công cụ NVTTM, thay cho các công cụ trực tiếp đã trở nên hết sức cần
thiết.
NVTTM tại Việt Nam hiện nay đang hoạt động đơn điệu, buồn tẻ, chưa phát huy

1.2 Hàng hóa giao dịch trên TTM:
Bao gồm các loại chứng khoán nợ sau đây:
 Tín phiếu kho bạc:
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do Chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt
tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn tín phiếu là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ
yếu của NVTTM vì các lý do sau:
 Tín phiếu kho bạc có tính an toàn và thanh khoản cao.
 Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn vì có thể đáp ứng được nhu
cầu can thiệp của NHTW vào cung tiền trong nền kinh tế với liều lượng
khác nhau.
 Tín phiếu NHTW:
Tín phiếu NHTW là giấy nhận nợ do NHTW phát hành để chi trả các khoản nợ
ngắn hạn của NHTW. Thời hạn tín phiếu thường là ngắn hạn và được phát hành
thường xuyên để tạo hàng hóa cho TTM .
 Trái phiếu Chính phủ:
Trái phiếu Chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm
bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng phổ biến trong
NVTTM bởi tính an toàn và ổn định của nó
 Trái phiếu địa phương:
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 3
Tương tự như trái phiếu Chính phủ nhưng trái phiếu địa phương khác về mục
đích phát hành, thời hạn và các điều kiện ưu đãi.
Thường do các chính quyền địa phương lớn phát hành để tài trợ cho những công
trình ở địa phương.
Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư và công chúng ưa chuộng. NHTM
thường dùng để tái chiết khấu tại NHTW.
 Chứng chỉ tiền gửi:
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ do ngân hàng hay các định chế tài chính phi

mua, bán các chứng từ có giá, nhằm cung cấp cho hệ thống ngân hàng lượng vốn khả
dụng phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Vai trò chỉ đạo của NHTW trên TTM được thể hiện ở các mặt sau:
 Trên cơ sở chính sách tiền tệ đã được hoạch định trước, NHTW sẽ chọn
công cụ cần thiết để thực hiện, trong đó có công cụ NVTTM .
 NHTW chủ động tổ chức và vận hành TTM, quyết định loại hàng hóa
giao dịch, số lượng, lãi suất, các nghiệp vụ giao dịch hàng ngày hay định
kỳ theo tín hiệu thị trường, phù hợp với những mục tiêu của chính sách
tiền tệ.
 Nếu không có NHTW tham gia thì khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi
(Một NHTM bán chứng khoán cho các NHTM khác chỉ là sự di chuyển
chứng khoán và đằng sau đó là sự di chuyển ngược lại của một phần
lượng dự trữ dư thừa, không ảnh hưởng đến tổng lượng tiền tệ trong xã
hội
Như vậy, NHTW tham gia TTM là để can thiệp vào quá trình tạo tiền thông qua
các NVTTM , từ đó NHTW sẽ quản lý được khối tiền tiền, kiểm soát và điều tiết hoạt
động tín dụng của các TCTD.
 Kho bạc Nhà nước
Kho bạc Nhà nước là người cung ứng hàng hóa cho TTM, bao gồm: Các tín
phiếu, trái phiếu kho bạc có mức độ an toàn cao, thuận tiện trong trao đổi, dễ thanh
toán để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Chính phủ. Đồng thời kho bạc Nhà
nước còn kết hợp với NHTW trong các nghiệp vụ mua bán trên TTM .
 Ngân hàng thương mại
Đây là đối tác quan trọng của NHTW trong NVTTM. Các NHTM tham gia thị
trường nhằm mục đích dùng khoản dự trữ ngân quỹ để kinh doanh kiếm lãi, đồng thời
qua đó thực hiện nghiệp vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Là một trung gian tài chính, có mạng lưới hoạt động rộng khắp trong nền kinh tế.
Do đó sự thay đổi trong dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến lượng vốn
huy động và cho vay, do đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo
mục tiêu của NHTW.

phương thức mua bán đứt trên cơ sở giá thị trường, không có một hình thức hoặc điều
kiện ràng buộc nào chung quanh việc mua bán. Người mua chứng khoán của NHTW
không nhất thiết phải bán lại nó mà bán cho ai hay giữ lại là quyền của họ. Phương
thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán giao dịch.
Vì vậy nó ảnh hưởng dài hạn đối với dự trữ của hệ thống ngân hàng.
 Giao dịch mua bán với thỏa thuận mua lại hay còn gọi là giao dịch có kỳ hạn
hay giao dịch có hoàn lại
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 6
Phương thức này được thực hiện trên các hợp đồng mua lại được ký kết. Nghĩa là
NHTW mua bán chứng khoán từ người môi giới trên thị trường và hai bên thỏa thuận
sẽ bán, mua lại chứng khoán vào một ngày trong tương lai.
Đây là hình thức phổ biến nhất mà các công ty kinh doanh chứng khoán và các
công ty tài chính vẫn thường thực hiện giao dịch với NHTW mỗi khi cần tiền mặt đột
xuất cho các hoạt động kinh doanh của mình.
Hợp đồng mua bán lại trong giao dịch này là những hợp đồng mua lại cực ngắn,
thường là qua đêm. Tuy nhiên cũng có khi dài hơn 2, 3 ngày…
Giao dịch theo hình thức này thực chất là 1 khoản cho vay có đảm bảo bằng
chứng khoán có tính thị trường cao. Sự chênh lệch giữa giá bán chứng khoán và giá
mua lại là lãi suất của khoản vay.
1.4.2 Các hình thức đấu thầu trên TTM:
Có hai loại đấu thầu: Đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. Chọn và hình
thức nào tùy thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
 Đấu thầu khối lượng:
Khi muốn tác động trực tiếp vào lãi suất thì chọn đấu thầu khối lượng. Khi đó lãi
suất do NHNN chọn trước, các đối tác đăng ký khối lượng dự thầu. Vì vậy khối lượng
trúng thầu là con số mà NHNN khó dự đoán chính xác.
Việc phân phối thầu được tiến hành như sau:
 NHTW niêm yết trước mức lãi suất, các đối tác tham gia đấu thầu đăng
ký số tiền đặt thầu trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất cho trước đó.

Ti (rm) = K (rm) . ai (rm)
Với K(rm) = A -  a (rs) /  ai (rm)
( s = 1, m-1)
Trong đó:
Ti (rm) : Số lượng trúng thầu được phân phối cho tổ chức i tại mức lãi
suất rm
K (rm) : Tỷ lệ (%) phân phối thầu tại mức lãi suất rm
Ai (rm) : Số lượng đặt thầu của tổ chức i tại mức lãi suất rm
A : Số lượng thầu được phân phối
 a (rs) : Tổng số tiền đặt thầu ứng với mức lãi suất rs của tất cả các tổ
chức.
 ai (rm) : Tổng số lượng đặt thầu của các tổ chức i ở mức lãi suất rm
 Đối với đấu thầu NHTW mua chứng khoán, thu hút dự trữ về thì quy
trình diễn ra ngược lại.
1.5 Cơ chế tác động của NVTTM:
 Tác động đến cơ số tiền trong nền kinh tế
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 8
Khi NHTW bán chứng khoán Chính phủ thì mọi tầng lớp dân chúng và NHTM
đều mua, có thể mua bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản và khi việc mua bán được thực
hiện xong thì trong dân cư mất đi một lượng tiền mặt, trong NHTM mất đi một lượng
dự trữ tương ứng tại NHTW. Từ đó NHTM phải thu hẹp khả năng cung ứng tín dụng
cho nền kinh tế, làm giảm cung tiền tệ.
Ngược lại, khi NHTW mua các chứng khoán Nhà nước đến hạn thanh toán,
NHTW phải trả một lượng tiền mặt tương ứng cho công chúng, hoặc phải chuyển
khoản tăng khối lượng dự trữ của NHTM. Do đó tăng khả năng cung ứng tín dụng cho
nền kinh tế, làm tăng cung tiền.
 Tác động đến lãi suất
Việc mua bán chứng khoán Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng ngay đến cung, cầu loại
chứng khoán đó trên thị trường, do đó tác động đến giá cả và lãi suất của nó. Nếu đó là

kinh doanh trên thị trường lớn và được nắm giữ phổ biến trong dân cư.
 Đảm bảo cơ sở pháp lý để TTM hoạt động an toàn và có hiệu quả
Để đảm bảo NVTTM hoạt động an toàn và có hiệu quả đòi hỏi cơ sở pháp lý bao
gồm các luật và văn bản dưới luật phải được hoàn thiện như:
 Luật về chiết khấu của NHTW
 Luật hối phiếu
 Luật kế toán, kiểm toán
 Luật phát hành đấu thầu và tín phiếu kho bạc
 Luật chứng khoán
Các văn bản này nhằm chuẩn hóa các thành viên tham gia TTM, đồng thời qui
định trách nhiệm của các đối tác có liên quan. Mặt khác với nguồn thông tin được
cung cấp chính xác, nó còn giúp ủy ban NVTTM dự báo nhu cầu vốn khả dụng để có
những chính sách điều tiết hợp lý nhất phù hợp chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
 Đảm bảo cơ sở vật chất và con người phục vụ cho TTM
Để có một mạng lưới thông tin rộng khắp trong toàn xã hội, phục vụ cho việc
điều tiết cung tiền và mua bán chứng khoán đòi hỏi TTM phải được trang bị cơ sở vật
chất hiện đại với các phương tiện thông tin tính toán được nối mạng với NHTW,
NHTM, các phòng giao dịch và khách hàng.
Ngoài ra TTM rất cần các chuyên gia phân tích, dự báo. Vì vậy việc đào tạo
thường xuyên các chuyên gia cung ứng cho NVTTM là hết sức quan trọng. Đồng thời
vai trò của người môi giới là chất xúc tác cần thiết trên TTM . Để họ đảm đương tốt vai
trò trung gian môi giới NHTW phải ban hành những tiêu chuẩn và chế độ quản lý chặt
chẽ để họ đủ tư cách hành nghề trên TTM.
 Thực hiện việc quản lý Nhà nước về NVTTM
NVTTM là một công cụ nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Do đó
nó phải đặt trong sự quản lý chung của NHTW nhằm đảm bảo sự phối hợp đồng bộ
với các chính sách vĩ mô khác cả trong ngắn hạn và dài hạn.
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 10
Việc quản lý này còn thể hiện ở việc phối hợp giữa NHTW và Bộ tài chính trong

NHTM.
1.8 Mối quan hệ giữa NVTTM với các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ
NVTTM ra đời sau các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, nó lại có
mối quan hệ chặt chẽ với các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ.
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 11
 Quan hệ với công cụ tái chiết khấu.
Điểm giống nhau: Công cụ tái chiết khấu và NVTTM đều có mục đích tái cấp
vốn cho các NHTM.
Điểm khác nhau:
 Công cụ tái chiết khấu cho phép cung ứng vốn khả dụng cho các NHTM
thông qua việc tái chiết khấu chứng từ có giá còn NVTTM không chỉ
cung ứng vốn khả dụng cho các NHTM mà còn rút vốn khả dụng ra khỏi
thị trường. Điều này giúp NHTW kiểm soát được lượng vốn khả dụng và
lãi suất trên thị trường.
 Khi thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu các NHTM đều biết trước lãi suất
chiết khấu, còn lãi suất trên TTM luôn thay đổi nên các NHTM khó dự
đoán, chính sự linh hoạt này đã khắc phục những hạn chế của công cụ tái
chiết khấu.
 Công cụ tái chiết khấu chỉ có hiệu quả khi các NHTM phụ thuộc NHTW
về vốn khả dụng. Vì thế, NVTTM là công cụ hỗ trợ cho nghiệp vụ tái
chiết khấu khi nó được sử dụng để giảm bớt lượng vốn khả dụng trong
hệ thống ngân hàng buộc các ngân hàng phải tìm đến nghiệp vụ tái chiết
khấu của NHTW.
 Quan hệ với công cụ dự trữ bắt buộc.
Điểm giống nhau: Công cụ dự trữ bắt buộc và NVTTM đều cho phép NHTW
chủ động điều tiết dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Điểm khác nhau:
 Đối với các NHTM việc tham gia vào NVTTM cũng là một phương án
kinh doanh vì NHTM được hưởng lãi suất đối với các chứng khoán mà

mức dự trữ của các NHTM và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
TTM ở Mỹ không giới hạn các loại hình chứng khoán được phép giao dịch, tuy
nhiên, trong thực tế, trái phiếu Chính phủ luôn chiếm tỷ lệ giao dịch cao nhất, thời hạn
trái phiếu rất đa dạng, từ 1 đến 10 năm, chiếm vị trí tiếp theo là giấy nhận nợ của tổ
chức liên bang và hối phiếu NHTM.
Chủ thể giao dịch trên TTM không bị hạn chế, bất cứ ai sở hữu chứng khoán đủ
điều kiện cũng có thể giao dịch trên TTM , bao gồm: ngân hàng, các trung gian tài
chính, các doanh nghiệp lớn.
Tùy theo từng điều kiện cụ thể mà Ngân hàng dự trữ liên bang dùng hình thức
mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn và thường được thực hiện qua đấu thầu lãi suất.
Trong trường hợp muốn tác động dài hạn đến lượng tiền ngoài lưu thông và
lượng dự trữ của các NHTM , Ngân hàng Liên bang thường sử dụng các giao dịch mua
bán hẳn. Ngoài ra, khi cần tiếp tục tăng dự trữ, bên cạnh việc mua đứt, Ngân hàng
Liên bang có thể sử dụng thêm hình thức trả trước hạn các loại chứng khoán. Cả hai
nghiệp vụ mua giao ngay và trả trước hạn đều có tác động làm tăng dự trữ ngân hàng
trong dài hạn.
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 13
Nếu dự báo cho thấy cần thay đổi tạm thời dự trữ hoặc không thể dự báo chính
xác được mức độ và thời hạn thay đổi dự trữ thì phương thức mua bán có kỳ hạn sẽ
được chọn. Thời hạn mua bán lại thường không quá 7 ngày và tín phiếu kho bạc được
thực hiện nhiều nhất qua giao dịch này.
1.9.2 Hoạt động TTM của NHTW Châu Âu
Đây là ngân hàng của khu vực tiền tệ thống nhất đầu tiên trên thế giới nên
NHTW Châu Âu luôn đặt tính ổn định đồng tiền lên vị trí hàng đầu, do đó, việc sử
dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, trong đó có công cụ NVTTM phải đạt được
hiệu quả cao, trong thực tế công cụ này đã được chú ý sử dụng ngay từ khi NHTW
Châu Âu đi vào hoạt động (1/1/1999).
Hình thức giao dịch trên TTM của Châu Âu rất đa dạng: giao dịch mua bán hẳn,
mua bán có kỳ hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ, phát hành chứng chỉ nợ của

dịch trên thị trường thứ cấp qua hình thức giao dịch hợp đồng mua bán lại, bỏ hoàn
toàn hoạt động thị trường sơ cấp nhưng thời gian sau vì lượng trái phiếu của Chính
phủ trên thị trường ít nên Thái Lan thường thực hiện đấu thầu tín phiếu NHTW.
Các chủ thể giao dịch trên TTM của Thái Lan bao gồm NHTM , các tổ chức tài
chính và các doanh nghiệp, do đó, phạm vi hoạt động TTM của Thái Lan tương đối
rộng so với các nước đang phát triển khác. Tuy nhiên, sự hạn chế về hàng hóa và sự
phát triển chưa hoàn hảo của thị trường làm cho tác động can thiệp của NHTW còn
nhiều hạn chế.
 Trong tình hình NHNN Việt Nam đang chuyển dần từ việc sử dụng các công cụ
trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển
và đang phát triển về NVTTM là hết sức cần thiết, nhằm hạn chế những sai sót, thất
bại có thể xảy ra để góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và phù hợp với thông lệ quốc
tế.

TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 15
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.1 Tình hình kinh tế vĩ mô
Tình hình kinh tế vĩ mô tăng trưởng cao và ổn định sẽ tạo tiền đề cho thị trường
vốn phát triển, từ đó, sẽ xuất hiện nhu cầu vốn của nền kinh tế và nhu cầu luân chuyển
vốn của các TCTD. Đó là những cơ sở cần thiết để TTM ra đời và phát huy hiệu quả.
Tình hình kinh tế vĩ mô qua các thời kỳ có một số nét đặc trưng sau:
 Giai đoạn từ 1989 đến 1991:
Nền kinh tế chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước, giai đoạn này các chính sách kinh tế mới tỏ ra có hiệu lực, cơn sốt lạm
phát 3 con số đã được đẩy lùi một bước. Tuy nhiên, tỷ lệ vẫn còn ở mức cao (2 con số).
 Giai đoạn từ năm 1992 đến 1997:

Nguồn: Internet
Mặc dù những thành tựu đạt được trong thời gian qua là đáng khích lệ, mức độ
tăng trưởng đạt được khá cao. Tuy nhiên, nó đã bộc lộ nhiều nhược điểm gây ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình tăng trưởng lâu dài:
 Tốc độ tăng trưởng mặc dù tăng nhưng có dấu hiệu không bề vững, cơ cấu
kinh tế, đặc biệt là cơ cấu vùng và ngành đã xuất hiện những mất cân đối,
nông nghiệp lạc hậu, đời sống nông dân còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu
nghèo ngày trở nên gay gắt, thu nhập xã hội giảm, tham nhũng gia tăng.
 Cơ sở hạ tầng yếu kém, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sử dụng vốn thấp, năng
lực cạnh tranh yếu kém, khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển kinh
tế so với các nước trong khu vực còn khá xa.
 Các vấn đề xã hội ngày càng trở nên bức xúc, hệ thống giáo dục, y tế, giao
thông xuống cấp nghiêm trọng, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng
nặng nề… có nguy cơ đe dọa sự phát triển lâu dài của đất nước.
 Sức đề kháng của nền kinh tế đối với những biến động trên thị trường thế
giới và trong nước thấp: Khi giá vàng và giá nguyên liệu, nhiên liệu nhập
khẩu tăng giá thì lập tức sản xuất trong nước lâm vào tình trạng khó khăn và
thị trường trong nước mất ổn định, điều này cho thấy năng lực dự trữ trong
nước còn hạn chế.
 Thị trường tài chính phát triển chậm chạp, yếu kém, giao dịch trong xã hội
chủ yếu vẫn dùng tiền mặt, thị trường thứ cấp chưa phát triển, các loại hàng
hóa giao dịch trên thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, TTM còn xa lạ
đối với dân chúng và các nhà đầu tư.
Trước những khó khăn trên, đòi hỏi cơ chế quản lý kinh tế phải có những cải
cách kịp thời, những chính sách và công cụ sử dụng cũng cần thay đổi để thích ứng với
mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó,
chính sách tiền tệ và các công cụ gián tiếp luôn luôn được chú trọng.
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 17
2.2 Cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động của NVTTM

TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 18
2.2.3 Các quy định về thị trường thứ cấp cho các loại chứng khoán ngắn hạn
trên
 Quy chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân
hàng kèm theo quyết định số 356/1999/QĐ-NHNN14 ngày 6/10/1999 của
Thống đốc NHNN. M ặc dù đây là quy chế liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu,
tái chiết khấu nhưng nó là căn cứ để các TCTD mua bán giấy tờ có giá giữa các
TCTD trên thị trường liên ngân hàng.
 Quy chế về tổ chức và hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng theo
quyết định số 136/QĐ/NH2 ngày 20/7/1993.
 Quy chế về tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo
quyết định số 101/1999/QĐ/NHNN13 ngày 26/3/1999.
2.2.4 Quy định về sự can thiệp của NHNN trên TTM
 Quy chế NVTTM ban hành theo quyết định số 85/2000/QĐ/NHNN14 ngày
9/3/2000.
 Hướng dẫn nghiệp vụ giao dịch trên TTM, nghiệp vụ lưu ký, thanh toán chứng
khoán…
 Quy chế về quản lý vốn khả dụng được ban hành theo quyết định số
37/2000/QĐ-NHNN1 ngày 24/1/2000.
Như vậy, hiện nay, hệ thống các quy định cần thiết cho TTM đã cơ bản hoàn
thành, nền tảng cơ sở pháp lý đã đầy đủ, đảm bảo sự hoạt động trôi chảy của TTM.
Tuy nhiên, sự can thiệp của NHNN bằng nghiệp vụ này có hiệu quả hay không còn
chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác thuộc về thị trường.
2.3 Tình hình huy động vốn qua các năm
Bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2000, tính đến nay, NVTTM (NVTTM) đã thực
hiện được hơn 7 năm, trong thời gian qua, NVTTM đã có nhiều cải tiến, đổi mới đem
lại những hiệu quả, trở thành kênh chủ yếu để bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ
lưu thông, bước đầu đã phát huy vai trò điều tiết vốn khả dụng của các TCTD, tác
động tích cực trong điều hành chính sách tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Khối

tăng số phiên giao dịch trong tuần (từ đầu tháng 5/2002, TTM đã tăng từ 1 phiên/ tuần
lên 2 phiên/ tuần, giao dịch vào ngày thứ ba và thứ năm hàng tuần), rút ngắn thời gian
thanh toán (từ tháng 9/2002, thời gian thanh toán các phiên giao dịch TTM được rút
xuống từ thực hiện một ngày sau ngày đấu thầu xuống thực hiện ngay trong ngày đấu
thầu).
Năm 2003, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, do NHNN và Bộ tài chính phối
hợp tổ chức, đã đạt được thành công lớn ngoài dự kiến. Trên TTM , bằng cách tiếp tục
duy trì hai phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức
được 107 phiên giao dịch với tổng doanh số giao dịch đạt 21.184,15 tỷ đồng, khối
lượng giao dịch bình quân mỗi phiên đạt khoảng 197 tỷ đồng; trong đó doanh số mua
kỳ hạn đạt 9.844,15 tỷ đồng và doanh số bán hẳn đạt 11.340,00 tỷ đồng.
Từ tháng 01 năm 2004, việc NHNN tăng định kỳ giao dịch từ 2phiên/tuần lên
3phiên/tuần và điều chỉnh linh hoạt các kỳ hạn giao dịch từ 7 lên 60 ngày cho phù hợp
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Trang 20
với nhu cầu vốn khả dụng của các NHTM và thực hiện mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ linh hoạt của NHNN cũng giúp cho hoạt động này phát triển mạnh hơn. Dựa
vào kết quả của năm 2004, ta thấy, tổng doanh số giao dịch đạt 61.935,91 tỷ đồng,
tăng gấp 3 lần so với năm 2003 và tăng tới 16 lần so với năm 2001; hai phương thức
giao dịch mua kỳ hạn và bán hẳn vẫn tiếp tục được duy trì với doanh số mua kỳ hạn
đạt 60.985,91 tỷ đồng và doanh số bán hẳn đạt 950 tỷ động. Số lượng các thành viên
tham gia trên thị trường đã tăng lên đáng kể, do từ năm 2004, sau khi NHNN cho phép
cả các giấy tờ có giá dài hạn, như các loại trái phiếu Chính phủ, sử dụng trong giao
dịch NVTTM, các TCTD đã quan tâm hơn tới nghiệp vụ này và tham gia vào thị
trường. Tính đến cuối năm 2004, có 27 TCTD tham gia, trong đó có 5 NHTM Nhà
nước, 13 ngân hàng cổ phần, 6 ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh, 1 công
ty tài chính và Quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương. M ặt khác, NVTTM trong năm
2004 đạt được khởi sắc còn do đã cải tiến kỹ thuật bằng cách áp dụng trang Web trong
giao dịch đặt thầu và đấu thầu, do đó tạo thuận lợi và giảm chi phí đầu tư ban đầu cho
các thành viên tham gia thị trường.

trong điều hành NVTTM, các bộ phận liên quan của NHNN đã có sự phối hợp chặt
chẽ hơn với bộ phận quản lý và kinh doanh vốn của các NHTM. Bên cạnh đó trong
điều hành NVTTM vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc đó là việc thị trường
tiền tệ còn có sự phân tách và chủ yếu chịu sự chi phối của 4 NHTM Nhà nước; số
thành viên tham gia các phiên giao dịch NVTTM chỉ chiếm 54% trong tổng số các
TCTD đã được công nhận là thành viên NVTTM. Việc dự báo vốn khả dụng để đưa ra
kiến nghị cho NVTTM vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả dự báo vốn khả dụng chủ yếu
mang tính ngắn hạn, hiệu quả điều tiết NVTTM còn chưa cao và hiện tại quy trình
đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá để tham gia NVTTM vẫn còn khá phức tạp.
Trước tình hình đó, trong năm 2007, NHNN đã có những định hướng điều hành
NVTTM với việc đề ra một số giải pháp thực hiện như nâng cao năng lực dự báo vốn
khả dụng của các TCTD theo định kỳ tháng, quý và dài hạn hơn để có quyết định
hướng giao dịch phù hợp với điều kiện thị trường và hoạt động kinh doanh của các
TCTD bằng các giải pháp như phân tích kinh tế vĩ mô, phối hợp thu nhập thông tin, tổ
chức họp các thành viên vào đầu tháng, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin, nhất là
thông tin về thị trường liên ngân hàng phục vụ công tác dự báo vốn khả dụng, đồng
thời tiếp tục cải tiến điều hành NVTTM bằng cách tăng số phiên giao dịch trong tuần
từ 3 phiên/tuần như hiện nay lên 4 phiên/tuần (mỗi ngày 1 phiên, từ thứ 3 đến thứ 6),
đa dạng hoá các kỳ hạn giao dịch chào mua, chào bán giấy tờ có giá , tăng khối
lượng giấy tờ có giá chào, cải tiến quy trình giao dịch NVTTM để đơn giản hoá các
thủ tục giao dịch NVTTM, thực hiện quy trình lưu ký qua mạng, nâng cấp chất lượng
đường truyền, tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường, đưa ra các giải
pháp hỗ trợ để thực hiện đổi mới điều hành NVTTM trong đó tập trung vào triển khai
Đề án đổi mới điều hành lãi suất của NHNN, điều hành các công cụ CSTT khác một
cách linh hoạt và tăng cường phối hợp với Bộ Tài chính để thu thập các thông tin về
tình hình thu chi ngân sách Nhà nước, đồng thời đề nghị Kho bạc Nhà nước đa dạng
hoá kỳ hạn trái phiếu Kho bạc để hình thành đường cong lãi suất chuẩn, làm cơ sở cho
các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ. Kết quả, tình hình hoạt động của TTM trong
năm 2007 đã có những bước tiến đáng kể so với năm 2006.
TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

ội

07/7/2000

05

NH Chinfon Commercial, HN

07/7/2000

06

NH TMCP Qu
ốc tế VN

07/7/2000

07

NH TMCP Phương Nam

07/7/2000

08

Công ty Tài chính bưu đi
ện

07/7/2000



NH Công thương VN

07/7/2000

14

NH Nông nghi
ệp & PTNT VN

07/7/2000

15

NH TMCP Tân Vi
ệt

11/7/2000

16

STANDARD CHARTERED, CN HN

24/7/2000

17

NH TMCP Á châu

25/7/2000


Ngân hàng ANZ

22/01/2002

23

NH TMCP K
ỹ th
ương VN

12/6/2003

24

NH PT nhà đ
ồng bằng SCL

10/11/2003

25

NH TMCP Xu
ất nh
ập khẩu

15/6/2004

26


31

NH BNP PARIBAR

05/5/2006

32

NH TMCP Đông Nam Á

24/5/2006

33

NH TMCP Vi
ệt Á

24/5/2006

34

NH TMCPNT Đ
ồng Tháp M
ư
ời

12/9/2006

35


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status