Đề tài “ Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện” pot - Pdf 16

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
“ Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng
và hướng hoàn thiện”
MỤC LỤC
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Tên đề tài:
Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện
LỜI NÓI ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
2.Phạm vi nghiên cứu
3.Mục đích nghiên cứu
4.Phương pháp nghiên cứu
5.Bố cục luận văn
PHẦN NỘI DUNG
Chương I:
Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và cân đối ngân sách nhà nước
1.1.Khái quát về ngân sách nhà nước
1.1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
1.1.2.Đặc điểm ngân sách nhà nước
1.2.Khái quát về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.1. Các lý thuyết về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.1.1. Lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
1.2.1.2. Các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách nhà nước
1.2.2.Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
1.2.3.Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước
1.2.4.Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Chương II:
Nội dung cơ bản của vấn đề cân đối ngân sách nhà nước
2.1.Các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
2.2.Cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và các khoản chi ngân sách

3.1.2.2.Giai đoạn từ khi có luật ngân sách nhà nước đến nay
3.1.2.2.1.Về thu ngân sách nhà nước
3.1.2.2.2.Phân định nhiệm vụ chi và nguồn thu ngân sách nhà nước
3.1.2.2.3.Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước
3.1.2.2.4.Bội chi ngân sách nhà nước
3.1.2.2.5. Về việc tuân thủ các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
3.2.Hướng hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam
3.2.1.Định hướng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam
3.2.2.Thuận lợi và thách thức trong quản lý và cân đối ngân sách nhà nước
3.2.3.Giải pháp hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước
3.2.3.1.Giải pháp mang tính tài chính
3.2.3.1.1.Hoàn thiện các chính sách về thuế
3.2.3.1.2.Chuyển dich cơ cấu thu ngân sách nhà nước
3.2.3.1.3.Cải cách công tác quản lý thu ngân sách nhà nước
3.2.3.2.Khắc phục tình trạng thu, chi ngân sách nhà nước vượt xa dự toán
3.2.3.3.Hoàn thiện các định mức phân bổ chi tiêu ngân sách nhà nước
3.2.3.4.Hoàn thiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo cân đối ngân
sách nhà nước
3.2.3.5.Đẩy mạnh các biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
PHẦN KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển
kinh tế của nước ta. Đảng và Nhà nước đã chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế bao
cấp tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt từ
năm 1991 trở đi nền kinh tế nước ta đã thực sự bắt nhịp được theo cơ chế kinh tế mới,
đất nước cũng đã có nhiều sự thay đổi và phát triển trên nhiều phương diện, nhất là vai
trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế- xã hội của Nhà nước được đề cao hơn bao
giờ hết. Để đảm trách tốt được vai trò này, Nhà nước cần có những biện pháp và công
cụ hữu hiệu để can thiệp vào hoạt động kinh tế. Một trong những công cụ quan trọng

đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam, góp phần hoàn thiện những chính sách về cân đối
ngân sách nhà nước trong thời kỳ mới đưa đất nước phát triển cùng thế giới.
2. Phạm vi nghiên cứu
Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Nhưng do hạn chế về
thời gian nghiên cứu nên trong luận văn của mình tôi chỉ tập trung nghiên cứu những
vấn đề sau:
- Giới thiệu những vấn đề chung về cân đối ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế thị trường.
- Những đề xuất hoàn thiện tình hình cân đối ngân sách của nước ta dựa trên thực
trạng cân đối ngân sách nhà nước.
3. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài luận văn này tôi hướng tới những mục đích sẽ đạt được sau đây:
- Hệ thống lại những quan điểm, những định nghĩa về ngân sách nhà nước và cân
đối ngân sách nhà nước từ đó đưa những quan điểm phù hợp nhất với nước ta trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đưa ra những nội dung cơ bản về cân đối ngân sách nhà nước ở nước ta hiện
nay, tìm hiểu và nhận xét về tình hình cân đối ngân sách nhà nước ta trong thời gian
vừa qua, từ đó tìm ra những ưu khuyết điểm của chính sách cân đối ngân sách nhà
nước để đề xuất những giả pháp tích cực và hữu hiệu về vấn đề cân đối ngân sách nhà
nước ở nước nhằm thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển bền vững và ổn định.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn của mình, tôi đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học như: so sánh, phân tích và đánh giá, thống kê, thu
thập tài liệu,…để thể hiện nội dung luận văn của mình mang tính chất của một đề tài
nghiên cứu khoa học.
5. Bố cục của đề tài
Bố cục của luận văn được người viết trình bày như sau: Phần lời nói đầu, phần nội
dung và phần kết luận. Trong phần nội dung gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và cân đối
ngân sách nhà nước.

như thế nào. Chính vì thế, việc sử dụng nguồn lực tài chính của quốc gia không được
minh bạch, rỏ ràng, theo hướng tiêu cực và chủ quan của một người. Đặc biệt, người
dân không thể kiểm sóat được những khoản đóng góp của mình vào quỹ tài chính đã
chi tiêu cho việc gì và mình đã được hưởng những lợi ích gì.
Ngân sách nhà nước đã xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, từ thời kỳ phong kiến
nhưng thuật ngữ “ ngân sách nhà nước” được thừa nhận với một ý nghĩa đầy đủ của nó
khi mầm móng tư bản chủ nghĩa ra đời
1
. Lúc này nhà Vua không còn quyền tự quyết
đối với các khoản thu chi của quốc gia nữa mà nó đã được chuyển giao lại cho Quốc
hội. Điều đó cũng tạo ra một bước ngoặc mới về việc quản lý và sử dụng ngân sách
nhà nước được minh bạch và rỏ ràng hơn. Ngân sách Nhà nước là một thuật ngữ xuất
hiện lần đầu tiên ở Anh vào thế kỷ 17. Khi đó, ngân sách nhà nước được hiểu là một
nguồn quỹ hoặc là túi tiền của người quản lý ngân khố, nó là toàn bộ những khoản thu
chi thuộc về Nhà nước và do Nhà nước thực hiện. Cho đến ngày nay, ngân sách nhà
nước được hiểu là bảng kế hoạch tài chính lớn nhất của một quốc gia bao gồm tất cả
các khoản thu chi phục vụ cho chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, thong
qua đó đảm bảo những lợi ích công cộng của xã hội.
Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên quan đến lĩnh vực
kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước. Vì vậy hiện nay có nhiều ý kiến
khác nhau định nghĩa về ngân sách Nhà nước, nhưng thể hiện rõ nhất và đầy đủ nhất
về bản chất của ngân sách nhà nước là hai định nghĩa trên hai phương diện kinh tế và
pháp lý.
 Ngân sách nhà nước xét về phương diện kinh tế
2
: Trước hết là một khái niệm
thuộc phạm trù kinh tế học hay hẹp hơn là tài chính học.Theo đó, ngân sách nhà nước
là bảng dự toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoản thời hạn nhất
định, thường là một năm. Từ định nghĩa đó ta thấy có 2 yếu tố cơ bản trong ngân sách

thông thường, ngân sách nhà nước được cơ quan lập pháp tạo ra theo trình tự thủ tục
riêng và hiệu lực thi hành của đạo luật này được xác định rỏ ràng là một năm.
Theo Điều 1 luật ngân sách nhà nước 2002, ngân sách nhà nước được định nghĩa là:
“ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước”.
Qua những quy định và phân tích về ngân sách nhà nước ta thấy, ngân sách nhà nước
chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự toán về các khoản thu chi
thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh đó ngân sách nhà nước còn là
một công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết hoạt động kinh tế-
xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động như hiện nay thì
ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
- Trước hết, ngân sách nhà nước là công cụ có hiệu lực của Nhà nước để
điều chỉnh thu nhập của toàn xã hội hạn chế sự phân hóa giàu nghèo đảm bảo sự công
bằng trong xã hội, góp phần giải quyết các vấn đề của xã hội như: trợ cấp thất nghiệp,
chính sách trợ giúp cho những người có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn, chi
chính sách dân số, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai,…Để thực hiện được việc này, Nhà
nước đã sử dụng công cụ thuế điều chỉnh những người có thu nhập cao trong xã hội,
3
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 14-15.
tạo nguồn thu về cho ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết
hoạt động kinh tế của một quốc gia. Thông qua các hoạt động: Cấp phát vốn, đầu tư cơ
sở vật chất hạ tầng cho các ngành then chốt, mũi nhọn của đất nước, áp dụng các chính
sách thuế để định hướng đầu tư phát triển kinh doanh… Nhà nước đã đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển ổn định và tạo thế cân bằng giữa các ngành nghề, địa phương của đất
nước. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động hiện nay, sự thay đổi về
giá cả, mất cân bằng về cung cầu, lạm phát xãy ra thì vai trò điều tiết của ngân sách
nhà nước góp phần quan trọng vào việc bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát. Nhà
nước thực hiện các biện pháp giảm chi, tăng thu và huy động nguồn vốn từ trong nhân
dân để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước, sử dụng quỹ dự trữ nhà nước để điều tiết

thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp trong quá
trình xây dựng và thực hiện ngân sách. Trong đó cơ quan lập pháp thường có vai trò
áp đảo hơn, cơ quan hành pháp chỉ là cơ quan thừa hành thực hiện bảng kế hoạch tài
chính mà Quốc hội đã thông qua, nhưng đồng thời còn phải chịu sự giám sát của Quốc
hội trong khi thực thi nhiệm vụ ngân sách nhà nước nhằm hạn chế sự lạm quyền của
các cơ quan hành pháp bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động
tài chính nhà nước. Điều này bộc lộ lên nét đặc trưng riêng của ngân sách nhà nước mà
ở các loại hình ngân sách khác không có, ngân sách nhà nước được thiết lập và thi
hành có sự tham gia, giám sát của nhân dân theo phương cách trực tiếp hay gián tiếp
thông qua vai trò của Quốc hội, có sự tham gia của cơ quan hành pháp, cơ quan lập
pháp và có sự phân chia nhiệm vụ rỏ ràng giữa hai cơ quan này. Trong khi đó, các loại
hình ngân sách khác thì Nhà nước để cho chính chủ thể đó tự quyết định và tự chịu
trách nhiệm về hậu quả xãy ra. Một số cơ quan hành pháp của Nhà nước chỉ tham gia
kiểm tra, giám sát trong những trường hợp cần thiết, mà không tạo nên mối tương
quan giữa cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp.
- Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi nhằm phục vụ hoạt động của bộ
máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình vì
lợi ích chung của toàn xã hội. Bộ máy nhà nước muốn hoạt động được cần có một số
tiền rất lớn để chi tiêu và số tiền đó được trích ra từ ngân sách nhà nước. Nhà nước
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình nhằm bảo đảm cho sự phát triển của toàn
xã hội, phục vụ lợi ích của toàn dân, không phân biệt người giàu nghèo hay đẳng cấp
địa vị xã hội. Đặc biệt ngân sách nhà nước còn ưu tiên để giúp đỡ phục vụ cho những
người nghèo, hỗ trợ để giảm bớt những tệ nạn xã hội. Vì vậy chính phủ luôn tìm cách
thỏa mãn giữa nhiệm vụ thu và nhiệm vụ chi đã được hoạch định và cho phép thực
hiện bởi Quốc hội. Đặc điểm này đã thể hiện một bản chất rất riêng của ngân sách nhà
nước, ngân sách nhà nước phục vụ cho toàn xã hội, toàn dân, không phân biệt người
giàu, người nghèo hay cá nhân, tổ chức nào để đảm bảo cho sự phát triển của cả đất
nước. Còn các loại ngân sách khác chỉ bao hàm được một số đối tượng cụ thể và
những mục tiêu hẹp hơn.
- Ngân sách nhà nước được thiết lập và vận hành theo bốn nguyên tắc cơ bản

hình ngân sách của quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước sẽ đề ra được những nhiệm vụ
khả quan hơn của ngân sách năm sau.
+ Nguyên tắc ngân sách toàn diện: Nguyên tắc này xuất hiện vào khoản thế kỷ 17, 18
ở các nước châu Âu. Nguyên tắc này được thể hiện qua hại nội dung sau: Mọi khoản
thu và chi đều phải được ghi cụ thể, rỏ ràng trong bảng dự toán ngân sách hàng năm đã
được Quốc hội quyết định; các khoản thu và chi không được phép bù trừ cho nhau mà
mọi khoản thu dùng để tài trợ cho mọi khoản chi
6
. Thực hiện tốt nguyên tắc này, bảng
dự toán ngân sách nhà nước sẽ đảm bảo được thiết lập rỏ ràng, cụ thể, minh bạch và
4
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 28.
5
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 30, 31.
6
Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Tư Pháp, 2007, Trang 32.
đầy đủ. Nước ta cũng đã ghi nhận và vận dụng nguyên tắc này bằng những quy định
cụ thể trong luật.
+ Nguyên tắc ngân sách thăng bằng: Nguyên tắc này cũng đã xuất hiện khá sớm ở
các quốc gia trên thế giới. Lúc đầu các nhà tài chính học cho rằng, sự thăng bằng của
ngân sách nhà nước là một ý niệm kế toán nhiều hơn là ý nghĩa về phương diện kinh tế
hay pháp lý. Theo đó, sự thăng bằng của ngân sách nhà nước được hiểu là tổng số thu
phải cân bằng với tổng số chi trong năm ngân sách. Còn các nhà tài chính học đương
đại đưa ra quan điểm mới về sự thăng bằng của ngân sách nhà nước là: Sự thăng bằng
ngân sách không hoàn toàn không đồng nghĩa với sự cân bằng giữa tổng thu và tổng
chi mà thực chất là sự cân bằng giữa tổng thu hoa lợi và tổng chi có tính chất phí tổn
7
.
Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận trong luật ngân sách nhà nước Việt Nam hiện
hành. Nguyên tắc này đã giúp xác định được tình trạng ngân sách nhà nước đang ở

tổng số những khoản chi không được quá tổng số những khoản thu. Hai là, tổng số
những khoản thu của ngân sách không bao giờ được lớn hơn tổng số những khoản chi
của ngân sách. Tức là ngân sách nhà nước phải được cân bằng tuyệt đối, bội chi hay
bội thu ngân sách đều biểu hiện sự lãng phí về nguồn lực trong nhân dân.Ngoài ra,
thuyết này còn đòi hỏi ngân sách nhà nước phải cân bằng cả khi lập dự toán và trong
quá trình thực hiện, nếu chỉ cân bằng khi lập dự toán còn trong quá trình thực hiện lại
không cân bằng thì không thể coi là cân bằng thực sự.
1.2.1.2. Các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách nhà nước
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường tự do cạnh tranh thì sự can thiệp của
Nhà nước vào hoạt động kinh tế đóng một vai trò rất quan trọng, đảm bảo sự ổn định
và phát triển của nền kinh tế, lúc này cân đối ngân sách lại trở thành một công cụ thiết
yếu hơn. Trong bối cảnh đó, quan điểm về cân đối ngân sách nhà nước cũng có nhiều
thay đổi.
- Lý thuyết về ngân sách chu kỳ
Nền kinh tế trãi qua một chuỗi dài các chu kỳ, mỗi chu kỳ đều trãi qua giai đoạn
phồn thịnh và suy thoái. Ở giai đoạn phồn thịnh của nền kinh tế thì của cải vật chất tạo
ra nhiều, năng suất lao động xã hội cao, thất nghiệp ít,…Do đó nguồn thu vào ngân
sách nhà nước sẽ lớn hơn nhu cầu chi tiêu và ngân sách nhà nước thường ở tình trạng
bội thu. Vì vậy nếu không xem xét cân đối ngân sách nhà nước theo chu kỳ, Nhà nước
rất dễ dùng số bội thu này chi tiêu vào những việc không cần thiết. Ngược lại, khi có
khủng hoảng xãy ra nền kinh tế chuyển sang giai đoạn suy thoái, của cải vật chất tạo ra
ít, năng suất lao động của xã hội thấp, thất nghiệp gia tăng,…Dẫn đến việc thu ngân
sách gặp nhiều khó khăn, ngoài ra Nhà nước còn chi tiền để phục hồi nền kinh tế và
giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh làm cho ngân sách nhà nước dễ rơi vào tình
trạng bội chi
9
. Như vậy, theo thuyết này sự cân bằng ngân sách nhà nước sẽ không duy
trì được trong khuôn khổ một năm mà sẽ duy trì trong khuôn khổ một chu kỳ kinh tế.
Nghĩa là, nguyên tắc cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước vẫn được tôn trọng
nhưng sự cân bằng ngân sách nhà nước phải thực hiện trong một chu kỳ phat triển

vì quá cứng nhắc, việc duy trì chính sách chi tiêu theo thuyết này tuy rất cần thiết
nhưng không thể đem đến sự phát triển bền vững cho nền kinh tế. Các thuyết hiện đại
thì đưa ra những biện pháp mạnh hơn để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước nhưng
trong điều kinh tế chuyển đổi và hội nhập như nước ta hiện nay, chúng ta cần phải lựa
chọn và vận dụng hợp lý các lý thuyết đó để đưa đất nước phát triển.
1.2.2. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự trù
các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế quá trình thu chi
ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi
sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp
ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó, hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi.
Do vậy các khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính toán chính xác và
phù hợp với thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn
định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà
10
Xem: Trần Đình Ty, Quản lý tài chính công, NXB Lao Động 2003, Trang 330.
11
Xem: Học viện tài chính, Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 265.
nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và
kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu vào ngân
sách nhà nước, còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào ngân sách
nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để hổ trợ. Điều đó dể dẫn đến ngân sách nhà
nước bị mất cân đối.
- Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu mà
Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự phân
phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó
- Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương quan
giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và
tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các
khoản chi của ngân sách nhà nước

cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định về kinh tế- xã hội
giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình trạng
bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.Trong
quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu, chi
ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng khoản thu,
chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó
để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân
sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để
đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội.
1.2.4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can thiệp vào
hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối ngân sách
nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước
thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu
hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh
tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục
tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền
kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán
được,…
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã
lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt
chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách.
Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân định nguồn
thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau
thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm
thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một điều

được chú trọng hơn. Nắm được tầm quan trọng của cân đối ngân sách nhà nước trong
sự nghiệp phát triển đất nước và ổn định xã hội, nước ta đã đưa ra những chính sách và
biện pháp để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối. Nhưng trước hết nước ta
cần phải xây dựng nguyên tắc cân đối ngân sách phù hợp với điều kiện kinh tế, chính
trị và xã hội của nước mình thì việc cân đối mới đảm bảo hiệu quả. Mặt khác, việc xây
dựng nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước phải được bắt đầu từ việc xác định vai
trò của nhà nước và phù hợp với từng bối cảnh cụ thể
12
.
Theo luật ngân sách nhà nước 2002 thì ngân sách nhà nước được cân đối dựa trên
nguyên tắc sau:
+ Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp
phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi, thì số
bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.Nguyên
tắc này đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện
sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường
xuyên được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên
cùng với thu bù đắp được sử dụng để chi đầu tư phát triển
13
. Trong đó, chi đầu tư phát
triển được chú trọng hơn, vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách
nhà nước nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên, vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà
12
Xem:Nguyễn Thị Bình Minh và Bùi Thị Mai Hòa, “Cân đối ngân sách nhà nước nhìn từ góc độ lý luận và
thực tiển” , Tạp chí tài chính số 10/2006, Trang 33.
13
Xem: Nguyễn Thị Bình Minh và Bùi Thị Mai Hòa, “Cân đối ngân sách nhà nước nhìn từ góc độ lý luận và
thực tiển” , Tạp chí tài chính số 10/2006, Trang 38.
nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội

trọng nguyên tắc phải cân bằng thu chi theo quy định của luật ngân sách nhà nước năm
2002, song thực chất ngân sách địa phương có bội chi và khoản bội chi này lại không
tính vào trong bội chi ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong
cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho
mọi địa phương là 30%( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý, vì mỗi địa
phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý
nợ và hoàn trả nợ là khác nhau.
Ngoài những nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước theo quy định của luật hiện hành,
thì trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước thì cần phải dựa trên hệ thống các
nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công hiệu quả như:
• Tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: Để kiểm soát được các nguồn
tài chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối ngân sách nhà nước phải đánh giá đúng
nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn
lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối ngân
sách nhà nước thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên cần
phải được gắn kết với nhau. Trong chi tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi vào
những khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến lược
mà chính phủ đề ra.
• Tính linh hoạt và tính tiên liệu: Trong cân đối ngân sách nhà nước, tính
linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết, vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và điều
phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước thực
hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền cho
người quản lystrong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính. Tính tiên liệu
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả.
Nguyên tắc này đòi hỏi cân đối ngân sách nhà nước phải chú ý đến sự cân đối trong
ngắn hạn và dài hạn, và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh
mất cân đối ngân sách nhà nước.
• Tính trung thực: Khi cân đối ngân sách nên dựa vào những dự toán đã
được lập từ thực tế tình hình kinh tế- xã hội của đất nước, mà không có sự thiên vị về
vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự toán quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự

bộ máy nhà nước đó.
o Nhìn từ góc pháp lý: Thu ngân sách nhà nước đó là những khoản thu theo
những hình thức pháp lý nhất định. Theo đó, thu ngân sách nhà nước được cụ thể hóa
trong văn bản pháp luật thực định như sau:
“Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí,lệ phí, các khoản thu từ
hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các
khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”.[ Khoản 1 Điều 2
Luật ngân sách nhà nước 2002]
Các khoản thu của ngân sách nhà nước chủ yếu được chia thành hai loại sau:
• Thu có tính chất hoa lợi: Theo thông lệ các khoản thu có tính chất hoa lợi
bao gồm: Khoản thu về thuế; khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; khoản
đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân; khoản thu từ viện trợ không hoàn lại của
nước ngoài cho chính phủ;… Trong đó khoản thu về thuế được xem là quan trọng và
thương xuyên nhất, nó đóng góp một phần lớn vào nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Thu có tính chất hoa lợi dựa vào hai yếu tố sau: Những khoản thu làm tăng ngân quỹ
nhưng không làm tăng trái khoản ( tức là làm tăng các khoản nợ).
• Thu không có tính chất hoa lợi: Theo quan điểm của Philip E.Taylor, khoản
thu không có tính chất hoa lợi được hiểu là những khoản thu làm tăng ngân quỹ nhưng
đồng thời cũng làm tăng một số lượng tương ứng các trái vụ của quốc gia
14
. Tức là thu
vào ngân sách nhà nước bao nhiêu thì cũng sẽ dùng để chi tương ứng như vậy, nó
không góp phần làm tăng ngân sách nhà nước. Các khoản thu này bao gồm: Thu về
vay nợ và viện trợ có hoàn lại; thu về lệ phí và phí;…
Trong cơ cấu các khoản thu ngân sách nhà nước, có những khoản thu cơ bản và mang
tính chất thường xuyên ảnh hưởng lớn đến vấn đề cân đối ngân sách nhà nước ở nước
ta hiện nay như: các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh
tế của nhà nước; các khoản thu từ các hoạt động viện trợ; các khoản đóng góp tự
nguyện của cá nhân và tổ chức.
2.2.1.1 Thu từ thuế, phí và lệ phí

Học viện tài chính, Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, NXB Tài Chính 2004, Trang 115.
Phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng không
thuần túy theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải trả
khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó
17
. Việc thu phí là hết sức cần thiết, khách quan,
phù hợp với vai trò quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Thu phí sẽ làm tăng thu nhập
cho ngân sách nhà nước, từ đó làm tăng khả năng đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất
hàng hóa và các dịch vụ công cộng, đảm bảo công bằng xã hội. Các khoản thu từ phí
cũng có thể là những khoản thu đưa vào ngân sách nhà nước, cũng có thể là những
khoản thu để lại cho các đơn vị thu sử dụng. Đối với các khoản thu về cho ngân sách
nhà nước, đây là một trong những nguồn thu quan trọng của các cấp ngân sách và
được đưa vào cân đối chung của ngân sách các cấp.
Lệ phí là những khoản thu gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý
của nhà nước cho các cá nhân và tổ chức nhằm phục vụ cho công việc quản lý hành
chính nhà nước theo quy định của pháp luật
18
. Khoản tiền này không phải là giá dịch
vụ mà là khoản thu phục vụ cho yêu cầu quản lý của nhà nước. Chỉ có một số cơ quan
thuộc bộ máy nhà nước mới được phép thu lệ phí và phải được quy định cụ thể trong
văn bản pháp luật hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Lệ phí là nguồn thu nộp
hoàn toàn vào ngân sách nhà nước và là nguồn thu thường xuyên của ngân sách các
cấp.Vì vậy thu lệ phí được bố trí trong cân đối thu chi của ngân sách các cấp, đảm bảo
cho nhu cầu chi bình thường của ngân sách cấp đó.
2.2.1.2 Các khoản thu ngoài thuế, phí và lệ phí
Ngoài nguồn thu cơ bản từ thuế, phí và lệ phí thì ngân sách nhà nước còn bao gồm
những nguồn thu khác bổ sung vào ngân sách nhà nước. Những nguồn thu đó không
mang tính chất thường xuyên, ổn định và chỉ là phần đóng góp khá nhỏ vào ngân sách
nhà nước nhưng nó cũng đảm bảo cho Nhà nước có nguồn vốn để thực hiện các mục
tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra, góp phần cân đối giữa hoạt động thu chi của ngân sách

nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật”.
Cơ cấu chi ngân sách nhà nước được phân biệt thành hai loại sau:
 Các khoản chi có tính chất phí tổn: Là những khoản chi làm giảm ngân quỹ
nhưng không làm giảm trái vụ của quốc gia, tức là những khoản chi này không làm
giảm bớt nghĩa vụ thanh toán nợ nhưng lại làm giảm ngân quỹ của quốc gia
19
. Bao
gồm các khoản chi như: Chi viện trợ không hoàn lại cho nước ngoài; chi trợ cấp cho
các đối tượng chính sách xã hội;… Những khoản chi này gây nhiều tổn thất cho ngân
sách nhà nước, nhưng vì trách nhiệm chăm lo cho nhân dân và tinh thần hữu nghị quốc
tế nên ngân sách nhà nước cần phải chi những khoản đó.
 Các khoản chi không có tính chất phí tổn: Là những khoản chi làm giảm ngân
quỹ đồng thời cũng làm giảm trái vụ tương ứng của quốc gia, tức là những khoản chi
này sẽ làm giảm ngân quỹ của quốc gia đồng cũng làm giảm nghĩa vụ thanh toán nợ
của quốc gia đó
20
. Bao gồm các khoản chi như: Chi trả nợ của Nhà nước đối với các tổ
chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài; chi đầu tư phát triển; chi cho sự nghiệp
kinh tế;…Các khoản chi này cũng không làm ảnh hưởng nhiều đến việc làm tăng hay
19
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 24.
20
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, NXB Tư Pháp 2007, Trang 25.

Trích đoạn Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước Về bội chi ngân sách nhà nước Vấn đề chuyển giao nguồn lực thông qua bổ sung cân đối cho các cấp NSNN CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1 Thuận lợi, khó khăn trong cân đối NSNN và định hướng cân đối NSNN Tạp chí ngân hàng số 10/
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status