Báo cáo khoa học: "Một vài suy nghĩ về khái niệm Hài hoà trong mỹ học và sự hài hoà trong cuộc sống" - Pdf 20

Một vi suy nghĩ về khái niệm Hi ho
trong mỹ học v sự hi ho trong cuộc sống

CN. Nguyễn thị thanh hải
Bộ môn Triết học
Khoa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh
Trờng Đại học GTVT

Tóm tắt: Bi báo ny trên cơ sở phân tích khái niệm hi ho trong mỹ học đặc biệt l mỹ
học Mác - Lênin đã chỉ ra một số biểu hiện cụ thể của nó trong hiện thực, từ đó gợi mở những
hớng suy nghĩ mới về những giải pháp tạo lập sự hi ho trong đời sống nhằm khắc phục sự
mất cân đối trong cuộc sống con ngời Việt nam hiện nay.
Summary: This article is based on analysis of harmony concept in aesthetics, especially
Marxist - Leninist aesthetics have shown some of its specific exxpressions in reality. From that,
new opinions on solutions which can create the harmony in life so as to overcome the
imbalance in existing Vietnamese human life are raised.

i. đặt vấn đề
KT-ML
Trong những năm gần đây, bên cạnh
những chuyển biến tích cực làm tiên tiến hoá,
hiện đại hoá đời sống tinh thần của con ngời
do sự nghiệp Đổi mới đem lại thì những ảnh
hởng tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị
trờng, từ những phản giá trị do xu thế quốc tế
hóa đem lại đã dẫn đến sự xáo trộn, phá vỡ sự
hài hoà trong mối quan hệ giữa con ngời với
tự nhiên và con ngời với con ngời. Vì vậy việc
nghiên cứu khái niệm hài hoà trong mỹ học và
vận dụng quan niệm đó để gợi mở những
hớng suy nghĩ mới về những giải pháp tạo lập

đợc. Nh vậy, cái đẹp phải hài hoà, phải
mang tính trật tự và kích thớc.
Hêraclit thì cho rằng màu đen, màu trắng,
màu đỏ đứng riêng một mình thì không đẹp
nhng nếu sắp xếp các màu theo 1 trật tự
nhất định thì sẽ có một mảng màu đẹp. Còn
theo quan niệm của ngời Babilone và Ai Cập
cổ đại thì cái đẹp là sự hoà hợp giữa sức
mạnh vật chất, tài năng, trí tuệ của con ngời
với sự hoàn thiện, ý chí cao cả của thế lực
siêu nhiên, thiêng liêng tuyệt đối.
Ngời Trung Hoa cổ đại thì lại coi "mỹ" là
sự hoà hợp chặt chẽ của "hành", "ý", "lý",
"tình", "tâm", "vật", "hình", "thần".
Nh vậy, đối với các nhà mỹ học cổ đại
thì cái đẹp luôn gắn với sự hoà hợp, hài hoà,
tỷ lệ, mực thớc. Đó cũng là quan niệm về sự
hài hoà thẩm mỹ của họ khi mà nhận thức loài
ngời còn ở trình độ sơ khai. Vợt xa hơn
nhận thức của các nhà t tởng mỹ học cổ
đại, hài hoà thẩm mỹ cần đợc hiểu không chỉ
là sự hoà hợp một chiều, không chỉ dừng lại ở
sự đo lờng cân xứng, không bó hẹp trong
phạm vi, kích thớc, thậm chí không dừng lại ở
giới hạn thời gian không gian nào cả. Có
những sự đối xứng, cân bằng nếu không đem
lại cho con ngời những rung cảm thẩm mỹ thì
nó không hài hoà.
Trong bớc đờng phát triển t tởng mỹ
học, các nhà duy vật mỹ học thế kỷ

trong sự nẩy sinh và giải quyết mâu thuẫn của
tất cả các hiện tợng, quá trình trong tự nhiên,
xã hội, tinh thần. Hài hoà chính là thuộc tính
cơ bản của cái đẹp và hài hoà phát triển tới
đỉnh cao là sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập. Sự hài hoà giữa đối tợng
khách thể thẩm mỹ không phải là sự cân
bằng, hoà hợp một chiều mà là sự thống nhất
trên cơ sở khác biệt về lợng và về chất, của
sự nảy sinh và giải quyết các mâu thuẫn tự
thân. Sự vật đợc gọi là đẹp phải có sự thống
nhất và đấu tranh giữa cái đẹp và cái cha
đẹp, cái hợp lí và cha hợp lí, sự cân bằng và
cha cân bằng, cái tỉ lệ và không tỉ lệ vv
Song nó luôn có khuynh hớng giải quyết các
mâu thuẫn ấy để đạt tới sự hài hoà. Nh vậy,
KT-ML

hài hoà theo quan niệm mỹ học Mác - Lênin
không chỉ là dấu hiệu thuần tuý hình thức mà
bao giờ nó cũng mang tính nội dung. Một
gơng mặt, một cơ thể đẹp phải tơng xứng
với sự phát triển của trí tuệ, sự phong phú
nhuần nhuỵ trong tâm hồn, năng lực hoạt
động thực tiễn tốt, lối sống đẹp vv Đó mới
thực sự là sự hài hoà thẩm mỹ. Nội dung đầy
đủ của sự hài hoà thẩm mỹ nh vậy mới là
tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp của con ngời.
Không chỉ thế mỹ học Mác - Lênin còn
khẳng định sự hài hoà luôn có nguồn gốc

định bởi quá trình hình thành (lao động) mà
còn đợc khẳng định do bản chất xã hội của
con ngời, bởi con ngời sống không chỉ quan
hệ với tự nhiên mà còn quan hệ lẫn nhau, quy
định lẫn nhau.
Khi đánh giá khách thể thẩm mỹ, tiêu chí
hài hoà thẩm mỹ còn gắn liền với hoàn thiện
thẩm mỹ. Bởi hoàn thiện thẩm mỹ là sự hài
hoà của khách thể đạt tới mức độ cao, trọn
vẹn và đầy đủ nhất trong một bối cảnh xác
định nào đó. Khi đó các thuộc tính thẩm mỹ
của đối tợng coi nh đạt tới sự hài hoà tối u.
Hoàn thiện thẩm mỹ đợc xem là sự hài hoà ở
mức độ lý tởng, tiếp cận với lý tởng thẩm
mỹ của con ngời và xã hội. Vì lẽ đó hoàn
thiện thẩm mỹ luôn tồn tại với t cách là
chuẩn mực để đánh giá cái đẹp Trong hệ
thống các tiêu chí đánh giá cái đẹp, hài hoà
thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ có quan hệ
biện chứng với nhau. Hài hoà là tiền đề, điều
kiện của hoàn thiện thẩm mỹ và hoàn thiện
thẩm mỹ là biểu hiện của sự hài hoà đạt đến
mức cao nhất, mang ý nghĩa tích cực nhất. Hài
hoà thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ cũng có
quan hệ mật thiết với các tiêu chí khác trong
đánh giá cái đẹp (tính nhân văn, tính biểu cảm
tính, hình tợng, tính sáng tạo ). Chúng tạo
nên một hệ tiêu chí tồn tại đồng hành trong
thẩm định, nhận diện cái đẹp của sự vật hiện
tợng theo hệ chuẩn Chân - Thiện - Mỹ.

với tự nhiên, hài hoà giữa các giá trị văn hoá
tinh thần có ý nghĩa chuẩn mực.
KT-ML
a. Hi ho giữa con ngời v tự nhiên
Hài hoà giữa con ngời và tự nhiên là một
biểu hiện của sự hài hoà trong cuộc sống. Đạt
đến sự hài hoà, sự hoà hợp giữa con ngời và
tự nhiên không chỉ có ý nghĩa to lớn về mặt
thẩm mỹ mà còn là một trong những nhân tố
quan trọng của phát triển xã hội, là một trong
những nội dung cơ bản nhất của triết lý phát
triển và phát triển bền vững trong thời đại
ngày nay.
Xuất phát từ những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác về mối quan hệ giữa con ngời và
tự nhiên dựa trên cơ sở tính thống nhất vật
chất của thế giới, có thể thấy rằng thế giới cực
kỳ phức tạp và đa dạng đợc cấu thành từ
nhiều yếu tố song suy cho cùng có ba yếu tố
cơ bản là: Giới tự nhiên, con ngời và xã hội
loài ngời thống nhất với nhau trong một hệ
thống tự nhiên - con ngời - xã hội. Vì rằng
chúng đều là những dạng thức khác nhau,
những trạng thái, những đặc tính và những
quan hệ khác nhau của vật chất đang vận
động. Chúng là một chỉnh thể toàn vẹn.
Trong Bản thảo kinh tế triết học viết
năm 1844. C.Mác khẳng định Giới tự nhiên là
thân thể vô cơ của con ngời Con ngời sống
dựa vào tự nhiên Sinh hoạt vật chất và sinh

trong ý thức của mỗi ngời là một điều cần
làm và nên làm. Hàng ngàn năm dựng nớc
và giữ nớc, con ngời Việt Nam luôn có ý

thức gắn bó với môi trờng tự nhiên, dựa vào
tự nhiên để sinh tồn. Truyền thống hoà hợp
với tự nhiên của dân tộc ta là một lối sống, lối
nghĩ có từ xa xa và đợc củng cố trong quá
trình phát triển. Ngời Việt Nam xa đã từng
có quan niệm về sự hài hoà giữa con ngời và
tự nhiên nh thiên - địa - nhân, trong quá
trình hoạt động thực tiễn mà hình thành quan
niệm thiên thời - địa lợi - nhân hoà. Tuy vậy
mối quan hệ giữa con ngời và tự nhiên, sự
hài hoà giữa con ngời và tự nhiên ở Việt Nam
nói riêng, thế giới nói chung hiện nay đang bị
phá vỡ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
là do ảnh hởng những mặt trái của cơ chế thị
trờng của quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá. Tốc độ phát triển chóng mặt của nền
kinh tế trong các xã hội công nghiệp đòi hỏi
nguồn nguyên liệu, nhiên liệu nhất là trong
điều kiện: xu thế quốc tế hoá đang nghiêng về
các nớc t bản u trội về khoa học - kỹ thuật
càng đẩy tới nguy cơ phá vỡ sự cân bằng, hoà
hợp của môi trờng tự nhiên.
Chúng ta có thể thấy kinh tế thị trờng
với quy luật giá trị, quy luật cung- cầu và quy
luật cạnh tranh đang tấn công dữ dội vào cả 2
mối quan hệ cơ bản: quan hệ giữa con ngời

nhiên. Để làm đợc điều đó trớc hết phải xây
dựng ý thức sinh thái trong nhân dân ở tất cả
mọi phơng diện: t duy kinh tế, ý thức chính
trị, đạo đức, đặc biệt là quan niệm đúng đắn
về văn hoá thẩm mỹ. Đây là nhóm giải pháp
có tính khả thi. Có nh vậy mới tạo cho con
ngời có thói quen sống hài hoà, sống đẹp
trong quan hệ với tự nhiên - thân thể vô cơ
của chính con ngời. Đồng thời, cần nâng cao
chất lợng và hiệu quả của giáo dục đào tạo
trong xây dựng ý thức sinh thái. Đổi mới nhận
thức, cơ chế tổ chức kĩ thuật quản lý, hình
thành và xây dựng ý thức sinh thái. Tất cả các
dự án, chơng trình kinh tế - xã hội, các nhà
máy, khu công nghiệp phải đợc luận chứng
đầy đủ và chính xác về mặt tác động tới môi
trờng sống. Đặc biệt, Nhà nớc ta cần tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động kinh tế - xã hội - môi
trờng. Bảo vệ và cải thiện môi trờng sống
theo hớng kết hợp hài hoà giữa phát triển
kinh tế - xã hội và môi trờng mà nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu ra
thể hiện sự sáng suốt của Đảng ta trong thực
hiện sự hài hoà giữa con ngời và tự nhiên.
KT-ML
b. Hi ho trong cấu trúc nhân cách
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin,

lịch sử xã hội loài ngời là lịch sử của con
ngời, do con ngời và vì con ngời. Một trong

nhiệm với gia đình, vợ con, làng nớc. Và chỉ
nh vậy họ mới đợc tôn trọng và ngợi ca.
Hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống
Mỹ khốc liệt với bao khó khăn chồng chất,
Việt Nam cha có điều kiện để khắc phục hạn
chế của xã hội truyền thống về mối quan hệ
giữa cá nhân và công đồng. Đó là hạn chế cơ
bản của chuẩn mực hài hoà trong đánh giá
thẩm mỹ về nhân cách. Đờng lối đổi mới của
Đảng thực sự đã đem lại cách nhìn nhận,
đánh giá mới về sự hài hoà trong mẫu hình
nhân cách mới và trên thực tế tạo cơ sở hiện
thực cho sự hài hoà này. Trung tâm của triết lý
phát triển hài hoà trong thời đại hiện này nói
chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng là sự
hài hoà trong mẫu hình nhân cách mới, là chất
lợng phát triển con ngời (Human
developmet). Chất lợng phát triển con ngời
đang là mối quan tâm hàng đầu và lâu dài
của Đảng và Nhà n
ớc ta, là cơ sở cho mọi đề
án, dự án phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội
ở Việt Nam. Phát triển con ngời theo hớng
nhân văn, nhân đạo là hớng tới mẫu hình
nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà. Sự
hài hoà ấy chỉ có đợc khi cái tôi đợc khẳng
định trong xu thế phát triển của xã hội. Nghĩa
là mọi nhu cầu vật chất - tinh thần của cá
nhân đợc xã hội đáp ứng và ngợc lại. Cá
nhân phát triển thúc đẩy xã hội phát triển. Đó

hài hoà trong mẫu hình nhân cách đòi hỏi có
biện pháp đồng bộ: phát triển kinh tế -văn hoá
- xã hội, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật
chất tinh thần cho nhân dân đồng thời phải
tăng cờng thực hiện các giải pháp khác,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo
dục đào tạo, coi đó là con đờng trực tiếp,
ngắn nhất, có hiệu quả lâu dài nhất.
Thực tiễn giáo dục những năm gần đây
còn nhiều bất cập, nhất là việc coi nhẹ công
tác giáo dục chính trị, t tởng, đạo đức,
truyền thống cho học sinh - sinh viên nh Đại
hội Đảng toàn quốc lần IX đã tổng kết. Đã đến
lúc cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc
về thực trạng giáo dục hiện nay và có giải
pháp tích cực để khắc phục sự mất cân đối,
thiếu hài hoà trong việc hình thành nhân cách
cho con ngời Việt Nam. Tạo sự cân bằng
trong giáo dục, nâng cao chất lợng đội ngũ,
chất lợng đào tạo, đổi mới nội dung và
phơng pháp giảng dạy để phát huy tính tích
cực của ngời học, áp dụng khoa học công
nghệ vào nhà trờng để hớng tới sự phát
triển toàn diện của con ngời trong giai đoạn
hiện nay là giải pháp khả thi để tạo sự hài hoà
trong phát triển nhân cách. Chỉ có nh vậy
mới có thể thúc đẩy đợc sự phát triển toàn
diện con ngời theo định hớng phát triển con
ngời Việt Nam hiện đại nh Đại hội Đảng
toàn quốc lần IX đã đề ra.

toàn có thể kế thừa đợc những thành tựu, giá
trị của nền văn minh nhân loại và nâng chúng
lên một trình độ mới. Đối với việc phát triển
thể chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cũng vậy, với sự tập
trung, nỗ lực trí tuệ của Đảng, Nhà nớc và
của toàn dân chúng ta có thể xây dựng phát
triển nền kinh tế thị trờng với sự hài hoà giữa
các yếu tố kinh tế - chính trị - văn hoá. Cơ chế
thị trờng hoàn toàn có thể phát huy mặt tích
cực, hạn chế đợc các mặt tiêu cực nếu có sự
định hớng của đờng lối chính trị xã hội chủ
nghĩa và đảm bảo lu giữ và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc.
Chủ trơng xây dựng nền văn hoá tiên

tiến đậm đà bản sắc dân tộc là kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp đã
đợc lu giữ qua hàng ngàn năm lịch sử và
tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa văn hoá
của nhân loại. Lịch sử đã chứng kiến sự gặp
gỡ giao thoa của nhiều luồng văn hoá đem lại
hiệu quả thúc đẩy mọi mặt đời sống xã hội. Sự
gặp gỡ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ
nghĩa yêu nớc Việt Nam, sự áp dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam ở từng giai đoạn cách mạng đem lại
thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam ở thế
kỷ XX, tạo tiền đề to lớn cho Việt Nam tiến
vào thế kỷ XXI chính là những minh chứng

khoa học. Nó trở thành cơ sở để con ngời
hớng tới cái đẹp chân chính. Trong đời sống
xã hội, duy trì sự hài hoà trong mối quan hệ
giữa con ngời với tự nhiên, quan hệ giữa con
ngời và con ngời là một đòi hỏi cấp thiết có
ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của
con ngời đặc biệt là trong thời đại ngày nay.
Đó là việc khó khăn nhng rất quan trọng và
cần thiết vì có hài hoà là có cái đẹp và tiến bộ.
Tài liệu tham khảo
[1]. C. Mác - F. Anghen. Toàn tập, tập 3. NXB
Chính trị quốc gia, Hà nội 1995.
[2]. C. Mác - F. Anghen. Toàn tập, tập 20. NXB
Chính trị quốc gia, Hà nội 1995.
[3]. Trần Lê Bảo (chủ biên). Văn hoá sinh thái nhân
văn. NXB văn hoá thông tin, 2001.
[4]. Lê Duẩn: Thanh niên với cách mạng xã hội chủ
nghĩa. NXB thanh niên 1978.
[5]. Lê Bá Hán, H Minh Đức: Cơ sở lý luận văn
học, tập 2. NXB giáo dục Hà nội 1973.
[6]. Học viện chính trị quốc gia HCM. Giáo trình mỹ
học Mác - Lênin. NXB chính trị quốc gia 2000.
[7]. Hội bảo vệ môi trờng GTVT. Môi trờng. NXB
GTVT 1994.
[8]. Đỗ Văn Khang: Lịch sử mỹ học nguyên thuỷ -
Hy lạp cổ đại. NXB văn hoá 1983.
[9]. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Nguyên lý mỹ
học Mác - Lênin, phần IV. NXB sự thật Hà nội
1963.
[10]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status