Luận văn thạc sĩ " “Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến biến động tài nguyên nước lưu vực sụng Nhuệ - Đáy thuộc thành phố Hà Nội ” doc - Pdf 21

A l Luận văn thạc sĩ " “Đánh
giá tác động của biến đổi
khí hậu đến biến động tài
nguyên nước lưu vực sụng

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đặc
biệt là các bạn học viên khóa 2008-2010 đã tận tình trao đổi, đóng
góp và động viên tôi r
ất nhiều để giúp đỡ tôi hoàn thành được luận
văn này.

Hà Nội, tháng 12/2010
Tác giả Văn Thị Hằng
MỞ ĐẦU
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy trải dài từ 18
0
15'00'' đến 20
0
10'30'' vĩ độ Bắc;
103
0
45'20'' đến 105
0
15'20'' kinh độ Đông. Sông Nhuệ và sông Đáy là hai con sông
rất quan trọng trong việc tưới tiêu và điều hoà nước cho một số tỉnh phía Bắc. Lưu
vực của hai con sông này đi qua các tỉnh và thành phố: Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam,
Nam Định và Ninh Bình.
Trong những năm gần đây, tài nguyên nước trên sông Nhuệ - sông Đáy thay
đổi rất rõ rệt cả về chất và lượng nước, điều này ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh
tế, xã hội và môi trường số
ng trong khu vực mà hai con sông này đi qua. Bên cạnh
đó, sông Nhuệ và sông Đáy lại có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối với các tỉnh

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1.VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Lưu vực sông Đáy- Nhuệ nằm ở hữu ngạn sông Hồng trong phạm vi từ
20
0
đến 21
0
20' vĩ độ Bắc và từ 105
0
đến 106
0
30' kinh độ Đông, với tổng diện tích tự
nhiên là 7665 km
2
, bao gồm một phần Thủ đô Hà Nội, Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam,
Nam Định, Ninh Bình. Giới hạn của lưu vực như sau:
- Phía Bắc và Đông Bắc được bao bởi đê sông Hồng từ ngã ba Trung
Hà tới cửa Ba Lạt với tổng chiều dài khoảng 242 km.
- Phía Tây Bắc giáp sông Đà từ Ngòi Lát tới Trung Hà với chiều dài
khoảng 33 km.
- Phía Tây và Tây Nam là đường phân lưu giữa lưu vực sông Hồng và
lưu vự
c sông Mã bởi dãy núi Ba Vì, Cúc Phương – Tam Điệp, kết thúc tại núi Mai
An Tiêm (nơi có sông Tống gặp sông Cầu Hội) và tiếp theo là sông Càn dài 10 km
rồi đổ ra biển tại cửa Càn.
- Phía Đông và Đông Nam là biển Đông có chiều dài khoảng 95 km từ
cửa Ba Lạt tới cửa Càn.
Sông bắt nguồn từ cống Liên Mạc (21
0
05’27” vĩ độ Bắc, 105


2
1.2 ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO
Nằm trên vùng châu thổ sông Hồng, khu vực nghiên cứu nằm trải dài theo
phương vĩ tuyến, chịu ảnh hưởng của nhiều đới cấu trúc địa chất khác nhau, khiến
cho địa hình có sự phân hoá tương phản thể hiện rõ nét theo hướng Tây-Đông và
hướng Bắc-Nam. Xét về mặt cấu trúc ngang đi từ Tây sang Đông có thể chia địa
hình khu vực nghiên cứu thành vùng chính như sau:

H×nh 1.1 B¶n ®å l−u vùc hÖ thèng s«ng §¸y- NhuÖ

3
a) Vùng đồi núi
Địa hình núi phân bố ở phía Tây và Tây Nam và chiếm khoảng 30% diện
tích, có hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam ra biển và thấp dần từ Tây
sang Đông. Phần lớn là các dãy núi thấp có độ cao trung bình 400 - 600m được cấu
tạo bởi các đá trầm tích lục nguyên, cacbonat; chỉ một vài khối núi có độ cao trên
1.000m được cấu tạo bởi đá trầm tích phun trào như khối núi Ba Vì có đỉnh cao
1.296m, khối núi Viên Nam có đỉnh cao 1.031m và cấu tạ
o bởi đá xâm nhập granit
như khối núi Đồi Thơi (Kim Bôi - Hoà Bình) có đỉnh cao 1.198m. Địa hình núi
trong khu vực cũng có sự phân dị và mang những đặc trưng hình thái khác nhau.
Địa hình đồi được tách ra với địa hình núi và đồng bằng bởi độ chênh cao
<100m, độ phân cắt sâu từ 15 - 100m. Trong phạm vi lưu vực sông Đáy-Nhuệ địa
hình đồi chỉ chiếm khoảng 10% diện tích có độ cao phần lớn dưới 200m, phân bố
chuyển tiếp từ vùng núi xuồ
ng đồng bằng. Theo đặc điểm hình thái, có thể chia
thành 2 khu vực: vùng đồi phía Bắc và vùng đồi phía Nam.
b) Vùng đồng bằng
Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 60% lãnh thổ, địa hình khá bằng

được bao bọc bởi các đê sông Hồng, sông Đáy song hầu như hàng năm phần lớn
diện tích đất canh tác ít nhiều đều được tưới bằng nước phù sa lấy từ các cống tự
chảy hoặc các trạm bơm. Quá trình bồi tụ, hình thành và phát triển củ
a các nhóm
đất ở từng khu vực khác nhau đã tạo nên sự đa dạng về loại hình đất trong hệ thống.
Song nhìn chung chúng đều là loại đất ít chua và chua có hàm lượng mùn và các
chất dinh dưỡng ở mức độ trung bình đến nghèo. Những khu vực cao ven sông
Hồng, sông Đáy đất có thành phần cơ giới nhẹ chủ yếu là đất cát hoặc pha cát khá
chua và nghèo chất dinh dưỡng. Các vũng trũng ven sông Nhuệ, Duy Tiên, Châu
Giang đất có thành phần cơ giới nặng hơ
n chủ yếu là loại đất thịt nặng và sét nhẹ ít
chua và giàu các chất dinh dưỡng hơn. Khu vực nghiên cứu có 5 loại đất: đất phù
sa, đất xám có tầng loang, đất phù sa glây, đất xám feralit và đất glây chua.
Đất phù sa chiếm diện tích lớn nhất của toàn bộ lưu vực, tập trung chủ yếu ở
phía Đông, phía Bắc và Đông Bắc. Đất phù sa thích hợp cho trồng cây nông nghiệp
như lúa nước, hoa màu. Phía Tây là nơi tập trung nhiều đất xám feralit thích hợ
p
cho trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày, cây ăn quả.[8]
1.4. THẢM THỰC VẬT
Hiện nay rừng đầu nguồn đang bị khai thác, tàn phá nghiêm trọng làm giảm
diện tích rừng tự nhiên và đa dạng sinh học bị giảm sút [8].
- Do lưu vực sông Nhuệ - Đáy có địa hình đa dạng, với các vùng đồi, núi và
2/3 diện tích là đồng bằng, nên trên lưu vực có nhiều hệ sinh thái khác nhau như
rừng trên núi đất, núi đá vôi, các hệ sinh thái thủy v
ực nước ngọt, các vùng đất ngập
nước.
- Phần lớn lưu vực là những vùng đồng bằng đã bị khai phá từ lâu đời. Nhưng
với một phần là diện tích rừng núi thuộc các khu rừng đặc rụng như Cúc Phương,
Ba Vì, khu bảo vệ cảnh quan Hương Sơn, Hoa Lư, Vân Long, ngập nước mặn với
thế giới sinh vật trong lưu vực vô cùng phong phú, đa dạng. Tính đến nă

o
C, thấp nhất tuyệt đối chỉ
2,7
o
C, trung bình năm dao động trong khoảng 23 ÷ 24
o
C. Trong những năm gần
đây, do ảnh hưởng chung của sự biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ không khí có xu
hướng tăng cao nên nền nhiệt độ không khí trung bình năm của những năm gần đây
cũng tăng lên (như năm 1998 là 25,1
o
C).
Độ ẩm không khí trong khu vực nghiên cứu khá lớn, trung bình năm dao
động trong khoảng 84 ÷ 86%. Mùa có mưa phùn (tháng III và IV hàng năm) là thời
kỳ ẩm ướt nhất còn nửa đầu mùa đông (tháng XII và tháng I hàng năm), do ảnh
hưởng gió mùa Đông Bắc khô hanh nên là thời kỳ khô nhất của năm.
Diễn biến của lượng bốc hơi phụ thuộc vào diễn biến của nhiệt độ và độ ẩm
không khí. Lượng bốc hơi tháng bình quân nhiều n
ăm dao động trong khoảng 60 ÷
100 mm. Tháng có lượng bốc hơi lớn nhất trong năm là tháng VII, tới 98 mm. Thời
kỳ khô hanh đầu mùa đông cũng là thời kỳ có lượng bốc hơi lớn, trung bình dao
động trong khoảng 90 ÷ 95 mm.

6
Tốc độ gió ở khu vực không lớn lắm.Tốc độ gió trung bình của tháng lớn
nhất (tháng IV) cũng chỉ khoảng 2,5m/s còn của tháng nhỏ nhất (tháng I) rất thấp,
chỉ 1,5m/s. Tuy nhiên, tốc độ gió mạnh nhất có thể đạt tới trên 40 m/s. Bảng 1.2 thể
hiện tốc độ gió mạnh đo được tại trạm Láng ứng với các xác suất xuất hiện khác
nhau. Hướng gió luôn thay đổi theo thời gian trong năm nhưng chủ
đạo là các

lưu vực là 271 km
2
, sông dài 40 km, chiều rộng trung bình lưu vực 9 km [5].

7
Chế độ thủy văn lưu vực sông Đáy không những chịu ảnh hưởng của các yếu
tố mặt đệm trên bề mặt lưu vực, các yếu tố khí hậu mà còn phụ thuộc vào chế độ
dòng chảy của nước sông Hồng và các sông khác. Vì thế mà chế độ thủy văn ở đây
rất phức tạp và có sự khác nhau nhất định giữa các đoạn sông. Dòng chảy trên l
ưu
vực sông phân bố không đều theo không gian và thời gian. Theo không gian, dòng
chảy lớn nhất là ở núi Ba Vì, phần hữu ngạn lưu vực có dòng chảy lớn hơn phần tả
ngạn. Sự phân bố theo thời gian thể hiện rõ nét thông qua phân phối dòng chảy
trong năm. Phân phối dòng chảy năm phụ thuộc vào sự phân phối theo mùa của
lượng mưa năm nên dòng chảy trong năm cũng phân phối không đều và thể hiện hai
mùa rõ rệt là mùa mư
a và mùa khô. Mùa mưa từ tháng V đến tháng X chiếm 80-
85% lượng mưa cả năm . Mùa khô từ tháng XI đến tháng IV năm sau.
Lượng nước mùa lũ ở hầu hết các sông chiếm từ 70- 80% lượng nước năm.
Trong mùa cạn, mực nước và lưu lượng nước nhỏ. Lượng dòng chảy trong 7 tháng
mùa cạn chỉ chiếm khoảng 20- 25% lượng dòng chảy cả năm. Ngoài các nhánh
sông lớn chi phối chế độ thủy văn trên hệ thống, sông Đ
áy còn nhận nước từ các
sông tiêu, sông tưới qua các cống La Khê, Ngoại Độ…Các sông này thường phải
đóng lại khi có phân lũ trong thời gian dài, ngắn tùy thuộc vào thời gian lũ. Sông
Đáy có vị trí rất quan trọng, nó vừa là đường thoát nước chính của sông Hồng, vừa
là đường tiêu lũ của bản thân lưu vực sông Đáy [7]ư.
1.7. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LƯU VỰC SÔNG NHUỆ ĐÁY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Trên đị

điểm thuỷ động lực, có thể phân chia vùng nghiên cứu thành 7 tầng chứ
a nước.
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy gồm có các nhóm đất chính: Nhóm đất mặn; phù sa;
xám; vàng đỏ; đất xói mòn trơ sỏi đá
Do lưu vực sông Đáy-Nhuệ có địa hình đa dạng, với các vùng đồi, núi và
2/3 diện tích là đồng bằng, nên trên lưu vực có nhiều hệ sinh thái khác nhau như
rừng trên núi đất, núi đá vôi, các hệ sinh thái thủy vực nước ngọt, các vùng đất
ngập nước. Hiện nay rừng đầu nguồn lư
u vực sông đang bị tàn phá nghiêm trọng.
Diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp đáng kể. Theo số liệu khảo sát gần đây nhất, diện
tích rừng trên lưu vực thuộc địa bàn Hà Nội chiếm 160.84km
2
(chiếm 6.36% diện tích
lưu vực trên địa bàn Hà Nội), trong đó có 55.2km
2
là rừng dự trữ; 105.64km
2
là rừng
dày-nghèo [11].
Khí hậu lưu vực sông Nhuệ-Đáy khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc Bộ với
đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh,
mưa ít. Lượng mưa phân bố không đồng đều, trung bình hàng năm 1.800mm. Hữu
ngạn của lưu vực mưa khá lớn (X > 1800mm), nhất là vùng đồi núi phía Tây (X
>2000mm). Trung tâm mưa lớn nhất ở thượng nguồn sông Tích thuộc núi Ba Vì
(X=2200-4000mm). Phần tả ng
ạn lưu vực lượng mưa tương đối nhỏ (X=1500-
1800mm), nhỏ nhất ở thượng nguồn sông Đáy, sông Nhuệ (X=1500mm), và lại
tăng dần ra phía biển (1800-2000mm).
Khu vực ô trũng đầm lầy về mùa mưa, thường xuyên bị úng ngập, đặc biệt
những khu vực nằm trong vùng phân lũ của sông Đáy, bởi vậy mỗi khi có báo động

ổn định, thịnh hành là Đông và Đông Nam, tần suất đạt khoảng 60 - 70%. Tháng VIII
hướng gió phân tán, hướng thịnh hành nhất cũng chỉ đạt tần suất 20 - 25%. Các tháng
chuyển tiếp hướng gió không ổn định, tần suất h
ướng thay đổi trung bình từ 10 - 15%.
Bốc hơi là một trong những thành phần chính của cán cân nhiệt và cán cân nước.
Lượng bốc hơi từ bề mặt trải trên lưu vực chủ yếu quyết định bởi tiềm năng nhiệt và
ẩm. Do đó, sự phân bố của lượng bốc hơi năm phụ thuộc vào sự phân bố không gian
của nhiệt và ẩm. Ngoài yếu tố mưa, yếu tố b
ốc hơi từ bề mặt lưu vực cũng tham gia
trực tiếp vào cán cân nước, ảnh hưởng rõ rệt tới sự hình thành dòng chảy. Do nền nhiệt
độ trên lưu vực cao làm cho quá trình bốc hơi trên lưu vực diễn ra đều khá lớn. Lượng
bốc năm dao động trong khoảng 900-1000mm. Do chịu ảnh hưởng của biển độ ẩm
tương đối trung bình hàng năm của lưu vực là 75-80%, lớn nhất vào
đầu mùa mưa, và
thấp nhất trong mùa khô.
Mạng lưới sông ngòi khu vực nghiên cứu tương đối phát triển, mật độ lưới
sông đạt 0,7 - 1,2km/km
2
. Lưu vực có dạng dài, hình nan quạt, gồm các sông chính:

10
Sông Đáy nguyên là một phân lưu lớn đầu tiên ở hữu ngạn sông Hồng, bắt đầu
từ cửa Hát Môn chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Nhưng đến năm 1937, sau khi
xây dựng xong đập Đáy nước sông Hồng không thường xuyên vào sông Đáy qua cửa
đập Đáy trừ những năm phân lũ, vì vậy phần đầu nguồn sông (từ km 0 đến Ba Thá dài
71km) sông Đáy coi như đoạn sông chết. Lượng nước để
nuôi sông Đáy chủ yếu là do
các sông nhánh, quan trọng nhất là sông Tích.
Sông Nhuệ lấy nước từ sông Hồng qua cống Liên Mạc để tưới cho hệ thống
thủy nông Đan Hoài. Sông Nhuệ còn tiêu nước cho thành phố Hà Nội, thị xã Hà Đông

tăng trưởng của nền
kinh tế, nên số người thất nghiệp và thiếu việc làm ở đây khá cao, tác động xấu đến
môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Sự phân bố nguồn nhân lực và tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực giữa các
vùng, các địa phương cũng rất khác nhau, không tương ứng với nguồn tài nguyên
thiên nhiên như đất, nước, rừng và khoảng sản cũng như không phù hợ
p với tốc độ
tăng của nền kinh tế. Điều đó dẫn đến những luồng di chuyển dân cư lao động từ
vùng này sang vùng khác, cũng là nguyên nhân gây mâu thuẫn, xung đột trong việc
khai thác, sử dụng tài nguyên trong vấn đề tìm kiếm việc làm.

11
Bảng 1.2: Tình hình phát triển dân số giai đoạn 1990-2009 ( 1000 người)
Năm
Tỉnh
1990 1995 2000 2003 2009
Toàn vùng 8143,9 8888,2 9510,5 9934,6 10813.7
Hà Nội 2119,1 2431,0 2739,2 3007,0
Hà Tây 2116,7 2299,0 2414,1 2479,4
6472
Hà Nam 722,3 763,7 795,5 814,9 785,0
Nam Định 1715,9 1820,5 1904,1 1935,0 1825,7
Ninh Bình 792,1 855,5 889,8 906,0 898,5
Hoà Bình 677,8 718,5 767,8 792,3 832,5
b)Tình hình phát triển kinh tế
Lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy là khu vực có nền kinh tế - xã hội phát triển
liên tục từ rất lâu đời, cho đến ngày nay đây vẫn là một vùng kinh tế - xã hội phát
triển nhất đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, vùng còn có nhiều thị trấn, huyện lỵ với
qui mô dân số mỗi thị trấn, huyện lỵ khoảng 3000 - 5000 người. Những năm qua
các cơ sở hạ tầng của các khu đ

3
/s, lưu lượng cực đại đạt 30m
3
/s .
Bảng 1.3 Phân phối dòng chảy năm các trạm thuộc lưu vực sông Đáy
Tháng Sông Bùi Sông Tích Sông Đáy
Q (m
3
/s) Tỷ lệ % Q (m
3
/s) Tỷ lệ % Q (m
3
/s) Tỷ lệ %
I 0 ,313 2 ,38 8 ,27 2 ,35 12 ,1 1 ,93
II 0 ,255 1 ,94 8 ,49 2 ,42 2 ,8 2 ,04
III 0 ,205 1 ,56 7 ,22 2 ,05 11 ,5 1 ,84
IV 0 ,27 2 ,05 13 ,4 3 ,81 18 ,2 2 ,91
V 0 ,544 4 ,13 24 ,5 6 ,97 34 ,2 5 ,47
VI 1 ,04 7 ,9 33 ,6 9 ,36 55 ,4 8 ,85
VII 1 ,62 12 ,3 34 ,4 9 ,79 81 ,8 13 ,1
VIII 2 ,52 19 ,1 56 ,5 16 ,1 135 21 ,6
IX 3 ,31 25 ,1 77 ,1 21 ,9 145 23 ,2
X 1 ,79 13 ,6 46 ,8 13 ,3 74 ,4 11 ,9
XI 0 ,911 6 ,92 22 ,8 6 ,49 32 ,8 5 ,24
XII 0 ,388 2 ,95 18 ,3 5 ,21 12 ,5 2
Mùa lũ 2 ,06 78 ,1 49 ,7 70 ,7 98 ,3 78 ,6
Mùa cạn 0 ,41 21 ,9 14 ,7 29 ,3 19 ,2 21 ,4
Năm 1 ,1 100 28 ,5 100 52 ,9 100
Nguồn: Cục Bảo Vệ Môi Trường 2006
c) Tình trạng ô nhiễm nước trên lưu vực

Đáy gần đây, chất lượng nước sông đang bị ô nhiễm nặng, vượ
t tiêu chuẩn cho
phép hàng chục lần .Mẫu nước sông Nhuệ lấy tại Cầu Hà Đông cho thấy, hàm
lượng ô xy hòa tan có trong nước thấp hơn quy chuẩn tới 7 lần, hàm lượng chất
hữu cơ vượt tiêu chuẩn 10 lần, NH4 vượt quy chuẩn 35.6 lần
Ở sông Đáy, mức độ ô nhiễm mang tính cục bộ, trong đó nặng nề nhất là
đoạn cầu Hồng (Phủ lLý, Hà Nam- hợp lưu sông Nhuệ, Đáy và sông Châu Giang).
T
ại đây, nước sông bị ô nhiễm hữu cơ cao. Các thông số như BOD5, COD, các
hợp chất Nitơ và Coliform đều không đạt tiêu chuẩn cho phép. Tình trạng này diễn
ra tương tự như tại đoạn hợp lưu của sông Hoàng Long đổ vào sông Đáy ( cẩu
Gián Khẩu- Gia Viễn – Ninh Bình). [9]

14
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
2.1. CÁC KỊCH BẢN BIẾN DỔI KHÍ HẬU
Biến đổi khí hậu, theo cách sử dụng của IPCC, chỉ sự biến đổi trong trạng
thái khí hậu nhận biết được thông qua những thay đổi về giá trị trung bình hoặc tính
chất của nó diễn ra trong một thời đoạn dài hàng thập kỷ hoặc hơn thế. Nó chỉ ra bất
cứ thay đổi nào của khí hậ
u theo thời gian cho dù là do biến đổi tự nhiên hay do tác
động của con người [2].
Theo số liệu quan sát cho thấy xu thế chung từ cuối thế kỷ XIX đến nay,
nhiệt độ trung bình không khí và đại dương toàn cầu tăng lên. Kết quả đo đạc và
nghiên cứu cho thấy thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua
(IPCC, 2001). Từ 1995-2006 có đến 11 năm nằm trong số 12 năm nhiệt độ lớn nhất
theo số liệu đ
o đạc nhiệt độ toàn cầu từ 1850. Nhiệt độ trong 100 năm 1906-2005
tăng 0.74 (0.56-0.92) lớn hơn so với giai đoạn 100 năm 1901-2000 (0.6 - 0.4:0.8).

C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa
hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng khí hậu phía
Nam (hình 2.1 a). Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961 – 2000) cao
hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó ( 1931 – 1960). Nhiệt độ trung bình năm
của thập kỷ 1991 – 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh đểu cao hơn
trung bình của thập kỷ
1931 – 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và 0,6
0
C. Năm 2007, nhiệt
độ trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 – 1940
là 0,8 – 1,3
0
C và cao hơn thập kỷ 1991 – 2000 là 0,4 – 0,5
0
C.

Hình 2.1. Diễn biến của nhiệt độ (a) và lượng mưa (b) ở Việt Nam 50 năm qua
Lượng mưa: Trên từng địa điểm cụ thể, xu thê biến đổi của lượng mưa trung
bình năm trong 9 thập kỷ vừa qua (1991 – 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và
trên các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. Lượng
mưa giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng lên ở các vùng khí h
ậu phía Nam
(hình 3.1 b). Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa trong 50 năm qua (1958 –
2007) đã giảm khoảng 2%.
Không khí lạnh: Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ

16
rệt trong 2 thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại thường xuất hiện mà
đợt gần đây nhất là đợt không khí lạnh kéo dài 38 ngày trong tháng 1 đến tháng 2
năm 2008 ở Bắc Bộ.

quyển từ các hoạt động khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận
tài, phá rừng,… Do đó, cơ sở xác định các kịch bản phát thải khí nhà kính là :
• Sự phát triển kinh tế ở quy mô toàn cầu
• Dân số thế giới và mức độ tiêu dùng
• Chuẩn mực sống và lối sống
• Tiêu thụ năng lượng và tài nguyên năng lượng
• Chuyển giao công nghệ
• Sử dụng đấ
t
• …
Trong Báo cáo đặc biệt về các kịch bản phát thải khí nhà kính năm 2000,
IPCC đã đưa ra 40 kịch bản, phản ánh khá đa dạng khả năng phát thải khí nhà kính
trong thế kỷ 21. Các kịch bản phát thải này được tổ hợp thành 4 kịch bản gốc là A1,
A2, B1 và B2 với các đặc điểm chính sau:
• Kịch bản gốc A1: Kinh tế thế giới phát triển nhanh; dân số thế giới
tăng đạ
t đỉnh vào năm 2050 và sau đó giảm dần; truyền bá nhanh chóng và hiệu quả
công nghệ mới; thế giới có sự tương đồng về thu nhập và cách sống, có sự tương
đồng giữa các khu vực, giao lưu mạnh mẽ về văn hóa và xã hội toàn cầu. Họ kịch
bản A1 được chia thành 3 nhóm dựa vào theo mức độ phát triển của công nghệ:
o A1F1: Tiếp tục sử dụng thái quá các nhiên liệu hóa thạch ( kịch bả
n
phát thải cao)
o A1B: Có sự cân bằng giữa các nguồn năng lượng (kịch bản phát thải
trung bình)
o A1T: Chú trọng đên việc sử dụng các nguồn năng lượng phi hóa thạch
(kịch bản phát thải thấp)

18


thể tăng nhanh hơn so với các vùng khí hậu phía Nam.
Theo kịch bản phát thải thấp (B1): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình
năm ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980-1999
khoảng từ 1,6 đến 1,9
o
C và ở các vùng khí hậu phía Nam tăng ít hơn, chỉ khoảng từ
1,1 đến 1,4
o
C.
Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung
bình năm có thể tăng lên 2,4
o
C ở Tây Bắc, 2,3
o
C ở Đông Bắc, 2,2
o
C ở Đồng bằng
Bắc Bộ, 2,6
o
C ở Bắc Trung Bộ, 1,8oC ở Nam Trung Bộ, 1,5
o
C ở Tây Nguyên và
1,9
o
C ở Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999.
Theo kịch bản phát thải cao (A2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình
năm ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999
khoảng 3,1 đến 3,6oC, trong đó Tây Bắc là 3,3
o
C, Đông Bắc là 3,2

C) so với thời kỳ 1980 -
1999 theo các kịch bản phát thải
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
KB_B1 KB_B2 KB_A2
Vùng
2030 2050 2070 2090 2030 2050 2070 2090 2030 2050 2070 2090
Tây Bắc 0,7 1,2 1,6 1,7 0,7 1,3 1,9 2,4 0,8 1,3 2,0 2,8
Đông Bắc 0,7 1,2 1,5 1,7 0,7 1,2 1,8 2,3 0,7 1,3 1,9 2,7
Đồng bằng Bắc Bộ 0,7 1,2 1,5 1,6 0,7 1,2 1,8 2,2 0,7 1,3 1,9 2,6
Bắc Trung Bộ 0,8 1,4 1,7 1,9 0,8 1,5 2,1 2,6 0,9 1,5 2,2 3,1
Nam Trung Bộ 0,6 0,9 1,2 1,2 0,5 0,9 1,4 1,8 0,5 1,0 1,5 2,1
Tây Nguyên 0,5 0,8 1,0 1,1 0,5 0,8 1,2 1,5 0,5 0,8 1,3 1,8
Nam Bộ 0,6 1,0 1,3 1,4 0,6 1,0 1,6 1,9 0,6 1,0 1,6 2,3
Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường
Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm
có thể tăng khoảng 7 - 8% ở Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ
và từ 2 - 3% ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980
- 1999 Lượng mưa thời kỳ từ tháng III đến tháng V sẽ giảm từ 4 - 7% ở Tây Bắc,
Đông Bắc và Đồng bằng Bắ
c Bộ, khoảng 10% ở Bắc Trung Bộ, lượng mưa vào
giữa mùa khô ở các vùng khí hậu phía Nam có thể giảm tới 10-15% so với thời kỳ
1980 - 1999. Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 10 đến 15% ở
cả bốn vùng khí hậu phía Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở Tây Nguyên và Nam Bộ chỉ
tăng trên dưới 1%.
Theo kịch bản phát thải cao (A2): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có thể
t
ăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999, khoảng 9 - 10% ở Tây Bắc, Đông Bắc,
10% ở Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, 4 - 5% ở Nam Trung Bộ và khoảng 2% ở
Tây Nguyên, Nam Bộ Lượng mưa thời kỳ từ tháng III đến tháng V sẽ giảm từ 6 -
9% ở Tây Bắc, Đông Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ, khoảng 13% ở Bắc Trung Bộ,

quan tâm đến môi trường của khu vực. Trong luận văn này đã lựa chọn 2 kịch bản
đánh giá mức độ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước: kịch bản
phát thải cao (A2) và kịch bản phát thải trung bình (A1B).
Các kịch b
ản lựa chọn tính toán ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới tài
nguyên nước lưu vực sông Nhuệ - Đáy được lấy từ nhóm nghiên cứu REMOCLIC
của GS.TS. Phan Văn Tân.
Tính toán cho các thời kỳ tương lai của các kịch bản, số liệu mưa và bốc hơi
được so sánh với thời kỳ 1970 đến 1999, Tính toán sự thay đổi được phần trăm
lượng mưa và bốc hơi ở thời kỳ
tương lai theo kịch bản biến đổi khí hậu cho khu
vực nghiên cứu như sau:
22
Bảng 2.3 Mức thay đổi lượng mưa và bốc hơi (%) so với thời kỳ 1970 –
1999 kịch bản phát thải A1B
Thời kỳ 2020
Nho Quan Láng Lâm Sơn Hưng Thi Hà Đông Ba Thá Trạm
Thời gian
Mưa Bốc hơi Mưa Bốc hơiMưaBốc hơiMưaBốc hơiMưa Bốc hơiMưaBốc hơi
I 0,09 1,38 0,10 1,31 0,03 0,13 0,09 1,37 0,02 0,14 0,10 1,35
II 0,19 1,23 0,26 1,26 0,40 0,38 0,19 1,23 0,42 0,38 0,20 1,24
III 0,62 1,16 0,92 1,13 0,89 0,67 0,63 1,16 0,99 0,81 0,68 1,15
IV 0,97 1,06 0,95 1,03 1,06 1,23 0,89 1,06 1,15 1,24 0,83 1,05
V 0,65 1,08 1,28 1,09 1,04 1,02 1,21 1,08 1,77 1,11 2,10 1,09
VI 1,75 0,97 0,68 0,93 0,88 1,16 1,53 0,98 0,70 1,18 1,23 1,00
VII 0,34 1,08 0,58 1,07 0,65 0,81 0,34 1,07 0,59 0,98 0,36 1,07
VIII 0,64 1,03 0,67 1,03 1,09 0,88 0,64 1,04 1,36 0,98 0,63 1,04


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status