luận văn nghiên cứu tác dụng của chế phẩm giáng chỉ tiêu khát linh điều trị rối loạn lipid máu trên động vật đái tháo đường týp 2 thực nghiệm (01) - Pdf 23

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng chuyển hoá là một chuỗi các yếu tố nguy cơ tim mạch và thay đổi
chuyển hoá liên quan với tình trạng tăng trọng lượng mỡ của cơ thể, trong đó rối loạn
lipid máu (RLLPM), rối loạn chuyển hoá (RLCH) carbohydrat, tăng huyết áp (THA)
và béo phì được coi là “bộ tứ chết người”; đó là những yếu tố nguy cơ hàng đầu gây
vữa xơ động mạch (VXĐM), bệnh tim mạch và đột quỵ [3][29].
Bệnh lý mạch vành có vị trí hàng đầu trong bệnh lý tim mạch, tỷ lệ bệnh mạch
vành ở người đái tháo đường (ĐTĐ) cao gấp 2 đến 3 lần người không mắc bệnh ĐTĐ.
Thậm chí người có rối loạn dung nạp glucose (RLDNG), suy giảm dung nạp glucose
lúc đói (RLGLĐ) cũng đã có những RLLPM tương tự và mức độ nguy cơ với những
tai biến tim mạch của họ không khác gì so với những người mắc bệnh ĐTĐ [2]. Bệnh
ĐTĐ gia tăng hàng năm theo sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Theo thống kê
của Hiệp hội đái tháo đường thế giới (IDF), năm 2011 có khoảng 336,2 triệu người
mắc ĐTĐ và dự báo đến năm 2030 con số này sẽ tăng lên đến trên 550 triệu người
(mức tăng trưởng là 51%). Bệnh ĐTĐ xảy ra khắp các châu lục, thường là ĐTĐ týp 2,
đặc biệt ở các nước phát triển [47].
Ở bệnh nhân ĐTĐ lâu năm, tình trạng tăng glucose máu, RLLPM (tăng LDL-
C, tăng triglycerid, giảm HDL-C) kéo dài dẫn đến nhiều những RLCH đan xen là
nguyên nhân chính gây VXĐM và để lại những hậu quả xấu đối với hệ tim mạch
gây nên nhiều các biến chứng mạn. Do vậy, các thuốc y học hiện đại (YHHĐ) và y
học cổ truyền (YHCT) điều trị ĐTĐ nhằm kiểm soát glucose máu, điều chỉnh
RLLPM để có thể giảm được nguy cơ tiến triển của các biến chứng và giảm nguy
cơ bệnh mạch vành, hạn chế tác dụng phụ của thuốc ngày càng trở nên cấp thiết và
luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà khoa học.
Các thuốc YHHĐ điều trị RLLPM ở bệnh nhân ĐTĐ còn nhiều hạn chế bởi
khi dùng thuốc kéo dài thường hay có những ảnh hưởng đến chức năng gan và
thận…[73][103] hơn nữa giá thành của thuốc khá cao. Do vậy, nhiều nhà khoa học ở
2
Việt Nam cũng như trên thế giới đang có xu hướng tìm kiếm và ứng dụng các thuốc
nguồn gốc tự nhiên có tác dụng điều trị ĐTĐ và hạn chế rối loạn lipid.

ĐTĐ là một hội chứng rối loạn chuyển hóa với sự tăng glucose máu do thiếu
tuyệt đối hoặc tương đối insulin. Sự thiếu hụt insulin ảnh hưởng tới chuyển hóa
carbohydrat, protein và lipid; gây ra các rối loạn hằng định nội môi của nước và điện
giải. Sự mất bù chuyển hóa cấp tính có thể gây tử vong; rối loạn chuyển hóa mạn tính
gây ra các thay đổi về cấu trúc và chức năng một cách thường xuyên và không thể
đảo ngược đối với các tế bào và mô của cơ thể, trong đó hệ thống mạch máu đặc biệt
nhạy cảm. Sự thay đổi này dẫn đến các biến chứng mạn tính của bệnh ĐTĐ [2].
ĐTĐ có thể xảy ra thứ phát sau các bệnh lý khác, ví dụ như viêm tụy mạn,
phẫu thuật tụy, tăng bài tiết các hormon đối kháng với insulin (hội chứng Cushing,
bệnh to đầu chi ). Tuy nhiên ĐTĐ thứ phát hiếm gặp. Phần lớn các trường hợp
ĐTĐ là tiên phát, được phân loại thành 2 týp. Týp 1 hay ĐTĐ phụ thuộc insulin
(insulin dependent diabetes mellitus - IDDM) là dạng ĐTĐ nặng, có biến chứng
nhiễm ceton nếu không được điều trị, thường gặp ở trẻ em và người trẻ. Bệnh
thường khởi phát một cách cấp tính, nồng độ insulin máu giảm hoặc không có do sự
phá hủy các tế bào β của đảo tụy. IDDM ít có tính chất gia đình nhưng có mối liên
quan rất rõ với một vài kháng nguyên phù hợp tổ chức như HLA - DR3 và DR4.
Týp 2 hay ĐTĐ không phụ thuộc insulin (non insulin dependent diabetes mellitus-
NIDDM) thường xảy ra ở những người trên 40 tuổi có béo phì, bệnh khởi phát từ
từ, hiếm khi gặp nhiễm ceton. Mặc dù bệnh biểu hiện không trầm trọng, nhưng các
bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có nguy cơ cao phát triển các biến chứng mạch máu lớn và
vi mạch. Ở đa số các bệnh nhân ĐTĐ týp 2, tế bào β đảo tuỵ không nhạy cảm với
glucose, dẫn tới sự bài tiết insulin suy giảm. Với các trường hợp khác, đặc biệt
người béo phì, nồng độ insulin máu phần lớn là bình thường (ở một số bệnh nhân
có thể tăng) và có sự không nhạy cảm của các mô với insulin (tình trạng kháng
insulin) [79].
4
1.1.2. Rối loạn chuyển hóa lipid trong đái tháo đường
1.1.2.1. Lipid và lipoprotein trong máu
Thành phần lipid chính trong máu là acid béo tự do, triglycerid (TG), cholesterol
toàn phần (TC) gồm cholesterol tự do (FC) và cholesterol este (CE), các phospholipid

tổng hợp ở gan). Nồng độ apo AI thấp là bệnh lý, phản ánh nguy cơ của bệnh tim mạch.
- Apo B 100 là protein cấu trúc chính trong VLDL và LDL, đóng vai trò chất
nhận diện các receptor màng tế bào đối với LDL, gắn với thụ thể LDL ở màng tế bào,
đưa LDL vào trong tế bào để cung cấp cholesterol cho tế bào. Apo B tham gia vào cơ
chế sinh bệnh của XVĐM và là nguyên nhân của nhiều bệnh lý tăng lipid máu. Apo
B, cholesterol cùng với VLDL và LDL là những yếu tố nguy cơ gây XVĐM. Tăng
apo B phản ánh sự thoái hóa cholesterol kém và sự ứ đọng cholesterol trong mô. Apo
B48 là protein cấu trúc chính trong CM, thiếu vị trí gắn với thụ thể của LDL.
Hình 1.1: Sơ đồ phân loại các lipoprotein [99]
1.1.2.2. Chuyển hóa lipoprotein
LP được chuyển hóa theo hai con đường ngoại sinh và nội sinh với sự tham
gia của các enzyme và protein vận chuyển. Bốn enzyme LPL (lipoprotein lipase),
HL (hepatic lipase), LCAT (lecithin cholesterol acyl transferase) và EL (endothelial
lipase) đóng vai trò sinh lý quan trọng trong chuyển hoá lipoprotein. Cholesteryl
este transfer protein (CETP) là một protein vận chuyển đặc hiệu, làm tăng vận
chuyển CE giữa HDL và các lipoprotein giàu TG. Phospholipid transfer protein
(PLTP) có tác dụng làm tăng sự trao đổi phospholipid giữa các lipoprotein [46].
* Chuyển hoá lipid ngoại sinh
TG, TC, PL từ lipid thức ăn được hấp thu qua niêm mạc ruột non tạo thành
CM. CM theo các bạch mạch đến ống ngực, đổ vào hệ tuần hoàn ở tĩnh mạch trên
đòn, tới mô mỡ và cơ. Tại các mô, TG được tách ra nhờ enzym LPL thành glycerol
và acid béo, các acid béo được dự trữ hoặc được các mô sử dụng làm nguồn cung
6
cấp năng lượng. Quá trình này xảy ra liên tục làm cho CM bị mất TG và tạo thành
CM tàn dư giàu cholesterol. CM tàn dư được gắn bắt ở tế bào gan nhờ các thụ thể
đặc hiệu với apo B 48 và apo E có trong thành phần CM tàn dư. Đời sống của CM
rất ngắn, chỉ vài phút. Ở gan, cholesterol được chuyển thành acid mật và đào thải
theo đường mật xuống ruột non, một phần cholesterol và TG tham gia tạo VLDL.
VLDL này rời gan vào hệ tuần hoàn để bắt đầu con đường vận chuyển hay chuyển
hoá lipid nội sinh (còn gọi là chuyển hoá lipid ở mạch máu) [7][53][94].

+ Lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) được tổng hợp tại gan hoặc từ sự thoái hóa
của VLDL và CM trong máu. HDL có chức năng thu hút FC thừa ở các mô đưa về
gan, chuyển hóa thành acid mật và đào thải theo đường mật. HDL đóng vai trò loại trừ
cholesterol thừa, vì vậy nó được gọi là “cholesterol tốt” và là cơ chế chống VXĐM
quan trọng nhất. Khi nồng độ apo A cùng với nồng độ HDL- C tăng, chứng tỏ sự
chuyển hoá tốt và sự đào thải tốt cholesterol, các chỉ số này giảm chứng tỏ sự bài xuất
cholesterol kém và sự ứ đọng cholesterol ở mô [7][53][67][95].
Ở người bình thường, quá trình tổng hợp và thoái hoá lipid diễn ra cân bằng
nhau và phụ thuộc vào nhu cầu cơ thể, vì thế duy trì được sự ổn định về nồng độ lipid
và LP trong máu. Khi có sự bất thường, các kiểu rối loạn chuyển hoá lipid sẽ xảy ra.
1.1.2.3. Rối loạn chuyển hóa lipoprotein
6867 ++, (,9::;7<,,<.(9=6567,. +>,(. ++,(9?567,%,,@
,(. ++,(96567 +>@,(. ++,(9656A7 +>@,(. ++,,,+&
BC74((+@1DDEF
8
* Phân loại theo Fredrickson:
Năm 1965, Fredrickson căn cứ vào kỹ thuật điện di và siêu ly tâm các thành
phần lipid huyết thanh và phân thành 5 týp dựa trên những thay đổi của thành phần
LP. Cách phân loại này nhanh chóng được chấp nhận nhưng sau đó, người ta đề
nghị tách týp II thành týp IIa có tăng LDL đơn thuần và týp IIb có tăng LDL,
VLDL. Bảng phân loại này trở thành phân loại quốc tế của WHO từ năm 1970.
Bảng 1.1. Phân loại rối loạn lipid máu theo Fredrickson có bổ sung [45]
Týp I IIa IIb III IV V
Cholesterol ↑ ↑↑ ↑↑ ↑
⊥ / ↑ ⊥ / ↑
Triglycerid ↑↑↑

↑↑ ↑↑ ↑↑ ↑↑↑
Lipoprotein ↑ CM ↑↑ LDL
↑ LDL

đã quan sát thấy sự tăng mức độ glycosyl hóa bởi phản ứng không enzym với tất cả
các loại LP trong tuần hoàn. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng LP ở các bệnh nhân ĐTĐ
tăng nhạy cảm với tác nhân oxy hóa, điều này có thể cũng làm tăng khả năng gây
VXĐM của chúng. RLLPM ở bệnh nhân ĐTĐ bao gồm cả sự thay đổi chất lượng và
số lượng lipid và lipoprotein huyết tương, mức độ trầm trọng của RLLPM ở bệnh
nhân ĐTĐ phụ thuộc vào týp bệnh, mức độ tăng glucose máu, mức độ thiếu hụt
insulin và yếu tố di truyền của RLLPM [2][45][46][47].
* Rối loạn chuyển hóa lipid trong đái tháo đường týp 1
- Tăng TG huyết tương: bất thường phổ biến nhất ở bệnh nhân ĐTĐ týp 1 là
tăng TG huyết tương do tăng VLDL. Rối loạn này sẽ mất đi khi kiểm soát được
glucose máu. Tăng VLDL có thể là kết quả của sự tăng bài tiết VLDL hoặc giảm
chuyển hóa VLDL do giảm lipoprotein lipase.
- Giảm HDL-C huyết tương: thường gặp phối hợp với tăng TG máu.
- LDL-C huyết tương: trong giới hạn bình thường ở bệnh nhân ĐTĐ týp 1.
Ở bệnh nhân ĐTĐ týp 1, bất thường chính của LP huyết tương là sự tăng
nồng độ VLDL huyết tương và tình trạng này sẽ được cải thiện khi việc điều trị
cùng với sự kiểm soát glucose máu một cách chặt chẽ được thiết lập.
* Rối loạn chuyển hóa lipid trong đái tháo đường týp 2
Rối loạn chuyển hóa lipid trong ĐTĐ týp 2 phổ biến hơn trong ĐTĐ týp 1.
Ảnh hưởng của ĐTĐ týp 2 trên chuyển hóa lipid và lipoprotein phức tạp hơn nhiều vì
nó chịu tác động của nhiều yếu tố như tình trạng kháng insulin, béo phì, phương pháp
điều trị, mức độ kiểm soát glucose máu, sử dụng thuốc điều trị các rối loạn phối hợp
và điều trị các biến chứng của bệnh ĐTĐ.
Rối loạn chuyển hóa lipid đặc trưng ở ĐTĐ týp 2 là tăng TG và giảm HDL-C,
và xuất hiện các phần tử LDL nặng và nhỏ (tỷ trọng tăng và kích thước nhỏ hơn)
10
trong huyết tương. Tăng TG máu do tăng bài tiết VLDL và sự giảm hoạt độ của
enzym LPL, đặc trưng bởi sự ứ đọng các phần tử tàn dư sau khi thuỷ phân VLDL, là
yếu tố gây VXĐM [2][45][46][47]. Ngoài ra người ta còn thấy tăng CT, tăng
cholesterol không HDL (nHDL-C), tăng apoB và giảm apoA-I [15][16][52][56] [62]

- Tăng nồng độ IDL, LDL dạng nhỏ đặc: IDL được chuyển hoá bởi lipase
của gan tạo thành LDL. Hoạt động của lipase gan tăng ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có lẽ
tham gia vào quá trình biến đổi LDL thành LDL nhỏ đặc [45].
 Các nghiên cứu định lượng nồng độ TC và LDL-C ở bệnh nhân tăng glucose
máu (ĐTĐ týp 2 và tiền ĐTĐ) và không tăng glucose máu cho kết quả rất khác nhau.
Một số báo cáo thấy tăng nồng độ LDL-C, nhưng một số báo cáo lại thấy giảm nồng độ
LDL-C ở bệnh nhân tăng glucose máu so với nhóm chứng. Hầu hết các nghiên cứu đều
cho thấy rằng giới hạn về tỷ trọng của tiểu phần LDL-C từ 1,006 đến 1,063, khoảng giới
hạn tỷ trọng này bao gồm cả tiểu phần IDL. Vì vậy, nồng độ LDL-C tăng ở bệnh nhân
tăng glucose máu có thể do tăng nồng độ IDL. Ở những bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có mối
liên quan giữa tăng glucose máu với giảm độ thanh thải của LDL-C. Ở những bệnh nhân
tăng glucose máu nhẹ (rối loạn glucose máu lúc đói và rối loạn dung nạp glucose) có thể
có hiện tượng tăng sản xuất LDL-C, được kích thích bởi insulin. Giảm sự thanh thải
LDL-C ở những bệnh nhân tăng glucose máu là do sự kháng insulin hoặc liên quan đến
giảm tiết insulin. Các thành phần trong tiểu phần LDL-C ở bệnh nhân ĐTĐ cũng thay
đổi, và những thay đổi này góp phần đáng kể về bất thường của chuyển hoá và VXĐM.
 Tiểu phần LDL ở những bệnh nhân tăng glucose máu giảm khả năng liên
kết với các thụ thể và rất nhanh chóng bị oxy hoặc glycosyl hóa, tiểu phần LDL bị
biến đổi này được nhận biết bởi thụ thể của đại thực bào và tạo điều kiện hình thành
tế bào bọt, đó là nguy cơ gây VXĐM [44][49].
- Giảm nồng độ HDL-C máu: Những bệnh nhân tăng glucose máu đều có sự
gia tăng thanh thải HDL-C. Enzym lipase gan tăng hoạt hóa, góp phần giảm nồng
độ HDL. Glycosyl hoá HDL do tăng glucose máu cũng tương tác với sự kết gắn với
thụ thể HDL do vậy làm giảm nồng độ HDL-C. Sự thay đổi trong thành phần của
tiểu phần HDL có thể làm giảm vai trò của HDL trong sự vận chuyển ngược
cholesterol. Giảm nồng độ HDL và thay đổi các thành phần trong tiểu phần HDL là
một phần trong sự RLCH lipid gây nên bởi tình trạng kháng insulin [2][15].
@=OP+#+B::;F+$(( QRQ017
12
FFA là một liên kết quan trọng giữa béo phì với kháng insulin và ĐTĐ týp 2

1
O
2
), gốc peroxyl (LOO

), gốc alkyl (L

), gốc alkoxyl (LO

). Các dạng
oxy hoạt động này có liên quan đến nhiều quá trình bệnh lý của con người [17].
1
O
2
,
H
2
O
2
, HO

là những chất độc đối với tế bào vì chúng sẽ tấn công các acid béo không
bão hòa có trong lipid màng tế bào gây nên những biến đổi màng tế bào và biến đổi
của những phân tử DNA, gây đột biến gen
1
O
2
, HO

có hoạt tính hoá học rất mạnh,

Vì superoxid liên tục được sinh ra và liên tục bị phá hủy nên SOD có hoạt tính càng
cao thì nồng độ superoxid càng nhỏ. Do đó, SOD là chất chống oxy hóa cơ bản, làm
hạ thấp nồng độ superoxid ban đầu mà từ đó sẽ sinh ra các dạng oxy hoạt động khác.
Catalase: Là enzym chống oxy hóa được biết đầu tiên, xúc tác phản ứng
phân hủy hydroperoxid vô cơ ở nồng độ cao. Catalase không phân hủy được
hydroperoxid hữu cơ và hydroperoxid vô cơ ở nồng độ thấp vì enzym này chỉ được
hoạt hóa khi hydroperoxid có nồng độ cao.
2H
2
O
2
2H
2
O + O
2
Glutathion peroxidase (GPx – EC.1.11.1.9): Glutathion peroxidase (GPx)
xúc tác phản ứng loại bỏ các peroxid hữu cơ và H
2
O
2
có nồng độ thấp:
2GSH + ROOH GSSG + ROH + H
2
O
GSH là glutathion dạng khử, GSSG là glutathion dạng oxy hóa, ROOH là
peroxid hữu cơ hoặc vô cơ).
Hệ thống glutathion peroxidase bao gồm 3 enzym: glutathion peroxidase
(GPx), glutathion reductase (GR) và glucose 6- phosphat dehydrogenase.
* Hệ thống chống oxy hóa có bản chất không enzym&
14

1.1.3.3. Stress oxy hóa ở bệnh đái tháo đường
Các bệnh nhân ĐTĐ thường được cho là chịu tác động của các stress oxy
hóa. Mối liên quan giữa ĐTĐ và các stress oxy hóa đã được bàn luận rất nhiều từ
nhiều năm nay. Vậy nguồn gốc có thể của các stress oxy hoá trong ĐTĐ là ở đâu?
Liệu sự gia tăng các stress oxy hoá có phải là yếu tố đóng vai trò hàng đầu trong
15
bệnh sinh các biến chứng của ĐTĐ hay chúng chỉ là chỉ điểm thứ phát của các tổn
thương mô giai đoạn cuối của bệnh ĐTĐ?
Các nghiên cứu dịch tễ học đã cho thấy rằng sự tăng glucose máu mạn
tính là yếu tố nguy cơ cho sự phát triển các biến chứng của ĐTĐ. Khi nồng độ
glucose trong tế bào cao có thể gây độc bằng các cơ chế như tăng chuyển hoá
glucose theo con đường polyol, glucosamin, tạo thành các sản phẩm AGE, hiện
tượng glycosyl hoá không enzym, tạo thành và hoạt hoá protein kinase C [64][106].
* Tăng chuyển hoá glucose theo con đường Polyol
Chuyển hoá glucose theo con đường polyol góp phần gây ra glycosyl hoá
protein không enzym.
Hình 1.3. Chuyển hoá glucose theo con đường polyol [90]
Khi nồng độ glucose trong tế bào quá cao, aldose reductase xúc tác phản ứng
chuyển glucose thành polyalcol sorbitol bằng cách khử nhóm aldehyd của glucose
và sử dụng cofactor NADPH [90]. Phản ứng này xảy ra quá mức làm cạn kiệt
NADPH của tế bào. NADPH còn là cofactor thiết yếu cho sự tái tạo glutathion
dạng khử (hình 1.3). Vì vậy, bằng cách làm giảm lượng GSH, con đường polyol
làm tăng tính nhạy cảm với các stress oxy hoá trong tế bào. Một số các chất ức chế
aldose reductase như sorbinil, epalrestat đang được thử nghiệm trên lâm sàng.
* Hiện tượng Gluco-oxy hoá (gluco-oxidation) và sự tạo thành gốc tự do
và các sản phẩm tận (AGE) [104].
16
Trong quá trình glycosyl hoá, phân tử glucose mở vòng tạo glucose dạng mở
vòng (hydroxy aldehyd). Các hydroxy aldehyd này sẽ phản ứng với các nhóm amin tận
của phân tử lysin hoặc valin trong phân tử protein tạo thành các phân tử protein

và làm thay đổi các protein trong máu (hình 1.6). Các protein bị biến đổi trong tuần
hoàn có thể gắn với AGE receptor và hoạt hoá chúng, làm tạo ra các cytokin gây
viêm và các yếu tố tăng trưởng, những yếu tố này gây bệnh lý mạch máu [12][15]
[106].
* Sự tăng hoạt tính của con đường hexosamin
17
Khi nồng độ glucose trong tế bào cao, phần lớn glucose được chuyển hoá
theo con đường glycolysis, trước tiên tạo glucose- 6 phosphat, sau đó là fructose - 6
phosphat và tiếp theo phần còn lại của chu trình. Tuy nhiên, khi fructose - 6
phosphat bị đổi hướng chuyển hoá theo con đường truyền tin, enzym glutamin
fructose-6 phosphat amidotransferase (GFAT) chuyển fructose-6 phosphat thành
glucosamin 6- phosphat và cuối cùng thành UDP (uridin diphosphat) N- acetyl
glucosamin. N- acetyl glucosamin gắn lên các gốc serin hoặc threonin của các yếu
tố sao chép (transcription factors) và sự thay đổi quá mức bởi glucosamin này
thường dẫn đến những thay đổi bệnh lý trong quá trình thể hiện gen [89].
Sự thay đổi yếu tố sao chép tăng lên dẫn đến tăng tổng hợp yếu tố tăng
trưởng chuyển dạng β1 (transforming growth factor - β1) và yếu tố ức chế hoạt hoá
plasminogen-1 (plasminogen activator inhibitor- 1), hai yếu tố này đều có tác dụng
xấu với mạch máu bệnh nhân ĐTĐ [75]. Mặc dù con đường hexosamin là yếu tố
mới được nhận biết nhất đóng góp vào bệnh sinh các biến chứng ĐTĐ, nó dường
như đóng vai trò quan trọng trong cả những bất thường ở tế bào cầu thận cũng như
rối loạn chức năng tế bào cơ tim do tăng glucose máu gây ra [70]. Ở những mảng
VXĐM cảnh của bệnh nhân ĐTĐ týp 2, sự thay đổi các protein tế bào nội mô bởi
con đường hexosamin cũng tăng có ý nghĩa [77].
* Hoạt hóa Protein Kinase C (PKCF[100]
Khi glucose máu tăng làm tăng sự tạo thành các dẫn xuất của oxy hoạt động
(ROS), ROS gây tăng lượng diacylglycerol (DAG) bằng hai cách trực tiếp và gián
tiếp: trực tiếp là tăng tổng hợp DAG mới do ROS ức chế enzym glyceraldehyd
phosphat dehydrogenase và gián tiếp là do các ROS hoạt hóa enzym phospholipase
D, enzym thủy phân phosphatidylcholin tạo ra DAG [100].

tương tự như oxy hoá glucose, sự tăng oxy hoá acid béo tự do gây ra tăng sản xuất
19
ROS bởi ty thể theo cơ chế tương tự như glucose máu tăng như đã mô tả ở trên.
Giống như tăng glucose máu, sự tăng ROS bởi các acid béo tự do này cũng hoạt hoá
những con đường tương tự gây tổn thương tế bào: AGE, PKC, hexosamin và NFκB
(Necrosis Factor κB). Trong các mô hình động vật không ĐTĐ có kháng insulin, ức
chế giải phóng acid béo tự do từ mô mỡ hay oxy hoá acid béo tự do ở nội mạc động
mạch đều ngăn ngừa sự tăng tạo ROS và các tổn thương của nó.
1.1.4 Đái tháo đường và vữa xơ động mạch
* Thế nào là vữa xơ động mạch
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới “VXĐM là sự phối hợp những biến đổi
của lớp nội mạc động mạch bao gồm sự tích tụ tại chỗ lipid và phức hợp glucid, máu và
các sản phẩm của máu, tổ chức xơ và calci, kèm theo những biến đổi của lớp trung mạc”.
VXĐM là bệnh của động mạch lớn và vừa, thể hiện bằng hai loại tổn thương
cơ bản và đặc trưng là mảng vữa xơ rất giàu cholesterol và mô xơ được hình thành
ở lớp nội mạc và một phần lớp trung mạc; làm hẹp lòng động mạch, cản trở máu
đến nuôi dưỡng các tổ chức [12][29].
Có nhiều yếu tố nguy cơ gây nên VXĐM như RLCH lipid, THA, béo phì, ĐTĐ,…
trong đó rối loạn chuyển hóa lipid đóng vai trò chủ yếu [2][45][46]. Các bệnh nhân ĐTĐ
có nguy cơ phát triển VXĐM cao hơn từ 2 đến 6 lần so với người không ĐTĐ.
* Cơ chế sinh VXĐM do rối loạn lipid máu
VXĐM xuất hiện trên bề mặt động mạch có tổn thương do rối loạn thâm
nhập của lipid, làm thay đổi cấu trúc của thành động mạch. Người ta cho rằng, trước
hết phải có tổn thương tế bào nội mạc thành động mạch do nhiều yếu tố như ảnh
hưởng của dòng máu có áp lực cao và liên tục trong bệnh tăng huyết áp, hút thuốc
lá, một số thuốc và hoá chất, RLLPM, nhiễm khuẩn và virus Khi bị tổn thương,
lớp nội mạc mất khả năng bảo vệ thành mạch, tiểu cầu lập tức tách ra khỏi dòng
máu để tập trung vào chỗ nội mạc bị bộc lộ và kết dính lại, giải phóng ra nhiều chất
trong đó có yếu tố PDGF (Platelet derived growth factor) kích thích sự di chuyển
của các tế bào cơ trơn ở lớp trung mạc ra lớp nội mạc và phát triển ở đó. Các

nguy cơ cao này là do RLLPM. Trong ĐTĐ, RLLPM có đặc điểm là tăng các
lipoprotein chứa apo B gây VXĐM, xuất hiện các LDL nhỏ, nặng và giảm HDL. Vì
LDL nhỏ, nặng có thể đi vào khoang dưới nội mạc một cách dễ dàng, gắn với
proteoglycan và làm tăng khả năng bị oxy hóa. Các LDL bị oxy hóa tăng lên trong
ĐTĐ và hội chứng kháng insulin [2][45][46].
Nồng độ HDL giảm trong đái tháo đường cùng với sự bất thường thành phần
cấu tạo có thể ảnh hưởng đến chức năng HDL, làm giảm quá trình vận chuyển
cholesterol ngược, do đó tăng ứ đọng lipid ở mạch máu.
Tất cả các loại lipoprotein bị glycosyl hóa tăng trong ĐTĐ. LDL glycosyl hóa
gắn kém với thụ thể LDL, do đó kéo dài thời gian lưu hành trong máu và có thể trong
khoang ngoài tế bào thành động mạch, tại đó chúng bị các biến đổi oxy hóa. LDL
glycosyl hóa tăng nhạy cảm với tác nhân oxy hóa.
Sự tạo thành các sản phẩm tận glycosyl hóa (advanced glycation end -
product) tăng trong ĐTĐ, các protein này gắn với receptor đặc hiệu trên tế bào thành
mạch dẫn đến tăng stress oxy hóa trong tế bào, tổng hợp các phần tử kết dính tế bào
nội mạc, hóa ứng động các monocyte, giải phóng các cytokin và các yếu tố tăng
trưởng. Vì vậy, các con đường oxy hóa, glycosyl oxy hóa tăng trong ĐTĐ là có khả
năng làm tăng quá trình VXĐM [2][45][46].
Các nghiên cứu mới đây cho rằng các mảng vữa xơ ở bệnh nhân ĐTĐ tương
tự mảng vữa xơ ở bệnh nhân không ĐTĐ nhưng chụp ảnh động mạch vành và giải
phẫu bệnh thì tổn thương mạch vành ở bệnh nhân ĐTĐ là tổn thương lan toả và cả ở
phần xa của động mạch vành [2][15]. Các yếu tố nguy cơtim mạch có thể có trước
khi xuất hiện bệnh ĐTĐ týp 2, chứng tỏ sự can thiệp đa yếu tố để dự phòng bệnh
mạch vành là hết sức cần thiết [45].
22
1.2. ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ LIPID THEO
Y HỌC CỔ TRUYỀN
1.2.1. Đái tháo đường theo quan niệm của Y học cổ truyền
Y học cổ truyền không có bệnh danh “đái tháo đường”; nhưng đối chiếu với
các chứng trạng lâm sàng, căn bệnh này được quy vào phạm vi chứng “tiêu khát”.

âm, năm chất dịch khô kiệt mà sinh ra" trong đó 3 tạng phế, tỳ, thận là chủ yếu [39].
Theo Cảnh nhạc toàn thư: Chứng tiêu khát là bệnh của tam tiêu, về thượng
tiêu chủ yếu là khát, uống nhiều, càng uống càng khát vì thượng tiêu tân dịch bị khô
kiệt, hoả ở tâm tỳ dương minh đều có thể hun đốt gây nên (còn gọi là cách tiêu); ăn
nhiều mau đói, không sinh ra da thịt mà người gầy là bệnh ở tỳ vị thuộc về trung
tiêu; đái nhiều, mệt mỏi, đau lưng, mỏi khớp là bệnh tại thận thuộc về hạ tiêu [39].
R+$$.S /TS*U*"7
- Phế: Phế chủ khí, phế khí tuyên thông thì bình thường điều tiết quản lý tân
dịch, cái tinh hoa trong tân dịch phế điều tiết được. Ngược lại, nếu phế khí trái
thường thì không thể điều tiết quản lý tân dịch, cái tinh hoa trong tân dịch là do mất
sự quản lý mà theo tiểu tiện bài tiết ra ngoài cơ thể, vì thế mà sinh chứng tiêu khát.
Sách "Bản thảo cương mục" viết: "Phế chứa khí, phế không bệnh thì có thể
quản lý tân dịch mà cái tinh vi của tân dịch mới nuôi nấng được cân cốt, huyết
mạch, còn thừa quá ngưỡng thì phải thải ra ngoài" [10][13][39].
- Tỳ: Tỳ chủ vận hoá, tỳ có bệnh thì không vận chuyển được thuỷ cốc và chất
tinh hoa của thuỷ cốc đi nuôi dưỡng cơ thể mà lại đào thải ra ngoài qua đường tiểu
tiện. Sách "Y Quán tiêu khát luận" viết "Tỳ thổ cùng vị thông hành tân dịch, tỳ vị đã
hư thì không thể phân bố được tân dịch nên khát, đói " [10][13][39].
- Thận: Thận chủ về nguyên âm và nguyên dương trong cơ thể, thận bị bệnh
nguyên âm không đủ thì không giúp hoả, hư hoả phạm lên mà sinh tiêu khát. Sách
"Đan Khê tâm pháp" viết: "Nhiệt phục ở dưới, thận hư phải chịu nên đầu gối, chân
khô gầy, xương khớp nhức đau, tinh chạy mất, tuỷ rỗng không, đòi uống nước".
Thận bị bệnh, nguyên dương không đủ đưa đến chức năng khí hoá của bàng quang
kém, thận tàng tinh, tinh khí không được tạo ra và đưa đi nuôi dưỡng cơ thể mà theo
tiểu tiện ra ngoài [10][13][39].
Cơ chế bệnh sinh chứng tiêu khát có thể tóm tắt trong sơ đồ sau:
24
ẨM THỰC
BẤT TÚC
TIÊN THIÊN

TRUNG TIÊU
NHIỆT MẠNH
TIÊU CỐC
TINH VI BÂT
SINH, TỨ CHI
THẤT DƯỠNG
TÀNG CHỨA
THẤT ĐIỀU, CỐ
NHIẾP VÔ NĂNG
ĐA
ẨM
ĐA
THỰC
GÀY
MÒN
ĐA
NIỆU
Hình 1.6: Sơ đồ tóm tắt cơ chế bệnh sinh chứng tiêu khát
1.2.2. Quan niệm của YHCT về hội chứng rối loạn lipid máu
1.2.2.1. Chứng đàm thấp, nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh
Đàm thấp là sản phẩm bệnh lý, đàm là chất đặc, thấp không đặc như đàm, đàm
thấp sau khi sinh sẽ gây ra những chứng bệnh mới. Theo Y văn cổ: "Chứng đàm
thấp là một loại chứng bệnh mà nguyên nhân gây bệnh chính là thủy ứ đọng lại ở
một vị trí trong cơ thể, không vận hoá theo qui luật bình thường”. Sách “”
gọi là tích ẩm, “V%WX.S Y” gọi là đàm thấp [10][11].
Nguồn gốc sinh ra đàm thấp do sự vận hoá bất thường của tân dịch ngưng tụ
biến hoá mà thành. Bình thường sự vận hoá thủy thấp trong cơ thể được điều hoà
bởi 3 tạng tỳ, phế, thận. Bởi vậy đàm thấp có liên quan đến 3 tạng tỳ, phế, thận.
Chứng thuộc tỳ là chứng quan trọng nhất trong vấn đề cơ chế sinh chứng đàm trệ.
Đàm thấp do tỳ dương mất chức năng vận hoá, làm chuyển hoá tân dịch bị ngưng

linh khu thiên: "Thọ yểu cương nhu" viết "con người ta sinh ra có cương có nhu, có
cường có nhược, có nặng có nhẹ, có âm có dương", yếu tố này có thể hiểu tương tự
như nguyên nhân di truyền của YHHĐ.
+ Yếu tố ăn uống (ẩm thực) do ăn quá nhiều các chất cao lương, thức ăn ngọt
béo làm tổn thương tỳ vị, khiến vận hoá thất điều, đàm thấp nội sinh mà dẫn đến
bệnh tật. Yếu tố này tương tự như việc ăn quá nhiều thức ăn mỡ động vật và phủ
tạng mà YHHĐ quan niệm.
+ Yếu tố ít vận động thể lực: Sách Tố vấn thiên "tuyên minh ngũ khí luận" viết
"cửu ngọa thương khí, cửu toạ thương nhục" (nằm nhiều hại khí, ngồi nhiều hại cơ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status