tích cực hóa hoạt động của học sinh lớp 11 – qua một tác phẩm văn học nước ngoài cụ thể là truyện ngắn người trong bao- sêkhốp - Pdf 24

Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
A- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Lý do khoa học
Sêkhôp là đại biểu lớn cuối cùng của chủ nghĩa hiên thực phê phán Nga
thế kỉ XIX. Nguyễn Tuân đã khẳng định vị trí to lớn của nhà văn Sêkhôp qua
nhận xét: “Sêkhôp là con chim linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại
nước Nga xưa. Sêkhôp là một bậc thầy của tiếng Nga, Sekhôp là một văn hào
chói sáng trong lâu đài chủ nghĩa nhân đạo”. Với tài năng và tâm hồn nghệ sỹ,
Sêkhôp đã để lại cho nhân loại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông - những
sáng tác đã góp phần tạo nên một hình thái văn chương mới cho nước Nga và
cho cả thế giới. Như tác giả Đỗ Hồng Chung đã nói: “Từ Puskin đến Sêkhôp:
văn học hiện thực Nga thế kỷ XIX đã từ khởi đầu đi đến hoàn mỹ”.
Truyện ngắn Nga nửa sau thế kỉ XIX đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ của nghệ
thuật thế giới. Giá trị văn học mà Sêkhôp để lại thông qua những sáng tác độc
đáo của ông đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của thể loại truyện ngắn
hiện đại có ảnh hưởng không chỉ ở nước Nga, châu Âu … mà còn lan rộng trên
khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Độc giả Việt Nam được tiếp xúc với tác
phẩm của Sêkhôp từ những năm 40 với tác phẩm “Tuổi già” đăng trên “Tiểu
thuyết thứ 7” – 1943. Trong kho truyện báu của tuyển tập “truyện ngắn
Sêkhốp” (do Phan Hồng Giang dịch năm 1978), ta không thể không kể tới tác
phẩm “Người trong bao” - một trong những truyện ngắn hay và đặc sắc nhất.
Trong chương trình sách giáo khoa cũ, tác giả Sêkhôp và truyện ngắn của
ông chưa được đưa vào giảng dạy. Nhưng hiện nay, trong sách giáo khoa bộ cơ
bản - lớp 11 tập II– NXBGD, tác phẩm “ Người trong bao” – Sêkhôp đã được
chọn làm tác phẩm giảng dạy chính. Điều này đã khẳng định tầm quan trọng của
nhà văn và tác phẩm.
1
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn

Ngữ văn
này sẽ thưởng thức mình nữa”. Bạn đọc Việt Nam yêu mến truyện của Sekhôp
bởi truyện của ông “ như người khách lạ mà quen”; luôn luôn mới mẻ nhưng rất
gần gũi. Mỗi tác phẩm đều thấm đấm tình yêu và niềm tin vào con người, vào sự
đổi thay để hướng đến một xã hội tốt đẹp tươi sáng hơn. Đồng thời nó cũng thể
hiện những trải nghiệm, những cảnh sống thực, những giai đoạn lịch sử đầy biến
động của nước Nga cuối thế kỷ XIX mà nhà văn được trực tiếp chứng kiến.
Quan tâm đến Sêkhôp và những vấn đề văn học, về tác phẩm, về cuộc
đời, sự nghiệp của Sêkhôp, ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu:
Giáo trình “ Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX” do Giáo sư Nguyễn Hải Hà chủ
biên: đi vào những điểm về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác; sơ qua về nội dung,
nghệ thuật truyện kịch của Sekhôp ở bình diện khái quát, chưa cụ thể.
Tác giả Đỗ Hồng Chung trong cuốn “Lịch sử văn học Nga” chỉ đề cập
đến nội dung của tác phẩm Sêkhôp. Ngoài ra, còn một số bài trích trong các tạp
chí như: Bài “chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Sêkhôp”- tạp chí nghiên
cứu văn học số 2-1960 của Lacôn; bài “ tác phẩm của Sekhôp ở Việt Nam” của
N.I.Culin-tạp chí nghiên cứu văn học số 4. Và một số bài báo khác đăng trên các
tạp chí văn nghệ; tạp chí giáo dục như: bài “ hướng dẫn học sinh lớp 11 đọc
truyện ngắn Người trong bao” của Nguyễn Văn Đường – tạp chí giáo dục số
142-2006.
Gần đây có báo cáo của Nguyễn Thanh Hương đề tài “ Hướng dẫn học
sinh tiếp cận “ Người trong bao” dưới góc độ hình tượng nhân vật”- ĐHSPHN.
Xét từ trước đến nay chúng tôi nhận thấy chưa thực sự có một công trình
nghiên cứu nào hoặc một bài viết nào về truyện ngắn “Người trong bao” mang
tính chất chuyên sâu. Hầu hết chỉ là những nhận xét, đánh giá tản mạn về tác
phẩm này trong hệ thống truyện ngắn của Sêkhôp trên một số tạp chí khiến cho
việc tiếp cận tác phẩm còn gặp nhiều khó khăn. Vì những lí do trên chúng tôi
quan tâm đến đề tài : “tích cực hóa hoạt động của học sinh lớp 11 qua quá trình
3
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH TÍCH CỰC HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1. Giới thuyết khái niệm về tính tích cực
Chất lượng của học sinh nói chung, học sinh THPT nói riêng luôn phụ
thuộc một cách tất yếu và có tính quy luật vào những nhân tố xác định gồm: mục
tiêu, yêu cầu đào tạo, nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp giáo dục;
chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên, học sinh; điều kiện, phương tiện học tập…
Tuy nhiên, nhân tố quyết định nhất thuộc về người học và đặc biệt khi người học
biết phát huy tính tích cực học tập, độc lập sáng tạo, chủ động biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Vì vậy, muốn nâng cao tính tích cực học tập
của học sinh trong trường THPT trước tiên cần nắm vững tính tích cực hoạt
động của học sinh nói chung.
Tính tích cực hoạt động học tập của học sinh là một phẩm chất nhân cách,
phản ánh trạng thái hoạt động, thể hiện sự nỗ lực mạnh mẽ nội sinh của người học;
đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng cao về trí tuệ, nghị lực hướng tới hình
thành những hành động học tập phù hợp để chiếm lĩnh mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Tính tích cực học tập của học sinh là điều kiện đảm bảo cho việc nắm vững hệ
thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp, hình thành các phẩm chất nhân cách,
biến nhu cầu đào tạo của nhà trường thành mục tiêu phấn đấu của mỗi người. Đồng
thời đây cũng có thể coi là điều kiện để học sinh tự học tập suốt đời, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của đất nước, và sự phát triển của nền tri thức.
Các yếu tố tâm lí thuộc về chủ thể quy định tính tích cực học tập của học
sinh bao gồm : động cơ, mục đích, việc nắm vững điều kiện phương tiện học
tập. Động cơ học là thành tố căn bản, đầu tiên trực tiếp thúc đẩy tính tích cực
học tập của học sinh. Đó là nội dung tâm lí chủ yếu liên quan đế thoả mãn nhu
cầu và và hình thành thái độ học tập, là cái gây hứng thú sự say mê tích cực,
sáng tạo cho học sinh trong quá trình học.
5
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn

6
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường các học sinh phải tích cực hoạt
động học tập, chiếm lĩnh kiến thức. Đây là yêu cầu của nhà trường và cũng là
yêu cầu của thời đại.
Trong nhà trường hiện nay, vấn đề dạy học văn là một trong những vấn đề
đáng được quan tâm nhất. Tình trạng học sinh chưa ý thức, chưa tụ tin, chưa có
khát vọng vươn lên làm chủ kiến thức còn tồn tại nhiều. Học sinh học lệch, chỉ
chú trọng học những môn thuộc lĩnh vực tự nhiên chiếm đa số. Tình trạng học
cho có điểm, học để thi qua tốt nghiệp diễn ra khá phổ biến. Các em không coi
Văn là một môn học có tính nghệ thuật mà chỉ coi như một môn học bị bắt buộc.
Bên cạnh đó tình trạng trì trệ trong dạy học văn cũng khiến học sinh chán học.
Nhiều giáo viên không thực sự tâm huyết với nghề; giảng văn vẫn theo lối cũ:
thầy đọc trò chép, truyền thụ kiến thức một chiều, không phát huy được năng
lực của học sinh.Xuất phát từ thực tiễn này, chúng ta cần thay đổi phương pháp
dạy học văn và chú trọng vào khâu tích cực hoá hoạt động của học sinh.
Cùng với yêu cầu của thời đại, yêu cầu từ thực tiễn dạy học văn, việc tích
cực hoạt động của học sinh còn xuất phát từ yêu cầu của văn bản. Mỗi tác phẩm
văn chương là một đại lượng đa nghĩa, một lâu đài bí ẩn cần có người khám phá.
Tầng nghĩa của tác phẩm không tồn tại đơn thuần trên một phương diện nào cả. Nó
tồn tại ở nhiều tầng, lớp khác nhau: lớp ngôn từ, lớp hình tượng, lớp cấu trúc…Vì
vậy mà luôn đòi hỏi sự tiếp nhận tích cực sáng tạo của bạn đọc- học sinh.
3. Những biểu hiện của tính tích cực hoạt động.
Tính tích cực hoạt động của học sinh được thể hiện trong mối liên hệ giữa
giáo viên - học sinh - văn bản. Theo quan niệm cũ, người giáo viên được ví như
linh mục, học sinh là các con chiên ngoan đạo. Người giáo viên là người truyền
thụ kiến thức, còn học sinh là những bình chứa muốn nhồi nhét bao nhiêu kiến
thức cũng được và thụ động tiếp nhận. Nhiều khi học sinh chưa đọc tác phẩm
giáo viên cũng không kiểm tra hết được là học sinh đã đọc tác phẩm rồi hay

từ sự thất bại được rút ra mà thành. Có học sinh lại hiểu hình ảnh đó gợi nên mối
quan hệ giữa chất liệu - sản phẩm, những mặt đối lập: tàn lụi- sự sống; Và có
những người hiểu rộng hơn đó là mối quan hệ giữa: cuộc sống- nhà văn- bạn
đọc- cuộc sống. Với những cách hiểu và cách quy chiếu như vậy, nội dung bài
thơ trở nên thật phong phú và đa dạng. Biểu hiện của tính tích cực hoạt động học
tập của học sinh chính là ở điểm này.
8
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
4. Cách thức để phát huy hoạt động của chủ thể
Theo giáo sư Phan Trọng Luận: “Nội dung của việc phát huy năng lực
chủ thể học sinh chính là sự huy động một cách có cơ sở khoa học phù hợp với
quy luật cảm thụ văn học, những năng lực chủ quan của bản thân học sinh để
học sinh chủ động tích cực hứng thú tham gia vào quá trình dạy văn, học văn do
đó tạo một hiệu quả tối ưu”. Như vậy, nhằm khai thác và phát huy tối đa tiềm
năng to lớn của người học trước hết cần tạo ra sự chuyển biến thật sự trong nhận
thức của học sinh để mỗi em ý thức được vai trò chủ thể tích cực sáng tạo của
mình từ đó tạo ra một sự đổi mới trong học tập nhằm đáp ứng được yêu cầu của
xã hội và thời đại. Mỗi học sinh cần nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm quan
trọng của môn học. Môn Văn là một môn chứa đựng những nội dung phong phú
về văn hoá, về sự sống sinh động, tinh thần tư tưởng tâm hồn của dân tộc; Nó
dành được một vị trí xứng đáng trong nhà trường phổ thông. Bên cạnh vai trò là
một môn học, môn Văn còn là một môn nghệ thuật. Đồng chí Phạm Văn Đồng
đã từng nhận xét: “Văn học nghệ thuật là thứ vũ khí vô song”. Điều này khẳng
định vị trí của môn Văn không chỉ trong lĩnh vực giáo dục, đời sống xã hội mà
cả phương diện chính trị nữa. Dạy học văn nhất thiết là để cho học sinh nhận
thức được vị trí, tầm quan trọng và sức mạnh của môn Văn là vậy.
Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chương, mỗi học sinh là một chủ
thể và có quan điểm chủ thể riêng. Tính chủ thể “trước hết bao hàm tính tích
cực. Tích cực phát triển cao thành tính chủ động, say sưa, đam mê”. Do đó, học

nghệ thuật; tiến tới sẽ giúp người đọc thâm nhập, cảm hiểu thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm bằng cảm xúc, liên tưởng và tưởng tượng đến khám phá thông điệp
tư tưởng của tác phẩm và tấc lòng của tác giả cho đến việc tìm ra ý nghĩa của văn
bản đối với việc phát triển nhân cách cho bản thân.
Với từng tác phẩm thuộc từng thể loại khác nhau, chúng ta sẽ có những
cách đọc khác nhau. Nếu như tác phẩm thuộc thể trữ tình thì giọng đọc thể hiện
qua từng câu, từng khổ thơ. Còn với tác phẩm tự sự, khi đọc phải kết hợp giọng
kể, giọng đọc, giọng tả, kết hợp giọng với việc thể hiện thái độ, cử chỉ, nét mặt,
10
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
tâm lí … cho phù hợp với tính chất của tác phẩm và góp phần vào việc khắc hoạ
nhân vật, những vấn đề mà tác giả đề cập tới. Tác phẩm mà chúng ta quan tâm ở
đề tài này là truyện ngắn “ Người trong bao” của Sêkhốp. Vậy cần phải đọc
truyện ngắn thuộc thể loại tự sự này như thế nào để phát huy được tính tích cực
của học sinh ? Giáo viên cho học sinh đọc phân vai để có thể bộc lộ được thái độ
tình cảm rõ hơn.
Đoạn mở đầu viết về chuyện bác sĩ thú y Ivan Ivanứt và Burơkin đi săn
đêm về muộn nghỉ tại nhà ông trưởng xóm, mang tính chất kể chuyện nên giọng
đọc ở đây không cần luyến láy, hay nhấn giọng. Bắt đầu từ đoạn“ Đây này,
chẳng phải tìm đâu xa…kéo mui lên”. Cũng chỉ là đoạn kể mang tính chất liệt
kê sự việc xoay quanh nhân vật Bêlicốp nên giọng đọc bình thường đều đều.
Nhưng bắt đầu từ đoạn “ nói tóm lại, con người này lúc nào cũng có khát vọng
mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ tạo cho mình một cái bao có thể ngăn
cách , bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài …cuộc sống thực” người
đọc phải thay đổi giọng. Vì đây là lời nhận xét của Burơkin - người hiểu rất rõ
Bêlicốp và rất ghét tên này cho nên cần đọc giọng nhần mạnh mang tính bình
phẩm, mỉa mai. Đến lời của Bêlicốp “ Ồ! tiếng HiLạp nghe thật là tuyệt vời và
êm tai ! – Anthrópos!” lên giọng như tiếng thốt lên đầy vẻ kiêu ngạo của một
con người tự mãn về mình.

nhấn giọng, đọc giọng chậm và trầm. Đoạn tiếp theo “Từ nghĩa địa trở về…như
thế nữa” giọng đọc chậm như tự đưa ra lời tự vấn. Đoạn cuối “Burơkin ngừng
kể bước ra ngoài sân, trăng lên …đó chẳng phải là một thứ bao sao?” Xuất
hiện hàng loạt các câu hỏi tu từ cần đọc nhấn giọng vào các câu hỏi này đẻ thấy
rõ được điều mà Bác sĩ Ivan Ivannứt nói. Và cuối cùng kết luận: “Không thể
sống mãi như thế này được!”. Riêng câu cuối này giọng phải nhấn mạnh, khẳng
khái thể hiện sự quyết tâm kêu gọi mọi người đổi thay và mong muốn sự đổi
thay của Ivan Ivannứt.
2. Biện pháp khơi gợi, liên tưởng, tưởng tượng.
Sự liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh được phát huy trong từng
bước chiếm lĩnh tác phẩm, vì thế nó cũng thể hiện vai trò, ý nghĩa tương hợp
nhằm tạo ra sự tác động cộng hưởng. Ở từng thao tác, liên tưởng và tưởng tượng
giữ một vai trò nhất định. Bắt đầu ở thao tác tiếp cận, biện pháp liên tưởng giúp
học sinh xác định những ấn tượng trực cảm, trực quan… Trong thao tác phân
12
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
tích, biện pháp này giúp học sinh chuyển sang tiếp nhận lý tính, dần dần có khả
năng minh chứng và lý giải cụ thể, sâu sắc những yếu tố cảm tính và khái quát.
Ở thao tác cắt nghĩa, nó giúp học sinh đi vào chiều sâu và bề rộng của sự nhận
thức, tạo cơ sở khoa học trong thao tác đánh giá toàn bộ giá trị tác phẩm. Có
nhiều cách khơi gợi liên tưởng và tưởng tượng nhưng tích cực nhất là thông qua
hệ thống câu hỏi. “Những liên tưởng và tưởng tượng thể hiện qua việc trả lời
câu hỏi sẽ là sợi dây kết nối những chân trời kiến thức mà dạng đầy đủ nhất sẽ
là hình tượng tác phẩm được tiếp nhận trọn vẹn cả về tính sinh động nghệ thuật
và tư tưởng thẩm mĩ”.
Trong truyện ngắn “Người trong bao”, giáo viên cần gợi cho học sinh và
để học sinh phát hiện ra nhiều mối quan hệ như: Liên tưởng hiện thực xác định
của tác phẩm trong mối quan hệ với hiện thực đời sống xã hội. (Thành phố ngột
ngạt và tù túng với những con người chỉ sống co mình trong bọc như Bêlicốp –

3. Biện pháp tích cực hóa hoạt động cắt nghĩa
Hoạt động cắt nghĩa là hoạt động cần thiết, là thao tác bắt buộc trong bất cứ
hoạt động đọc hiểu nào, bất kì kiểu văn bản nào. Đối với văn bản văn nghệ thì
thao tác này không những quan trọng mà còn đòi hỏi chú ý đến nhiều đặc điểm
khác nữa để đảm bảo nguyên tắc hoạt động tiếp nhận của văn bản này.
Trong tác phẩm, người đọc-học sinh không nhất thiết phải phân tích dàn
trải tất cả các vấn đề, các yếu tố có mặt trong tác phẩm. Chúng ta phải nắm được
những mặt quan trọng nổi bật nhất. Phân tích văn chương đồng nghĩa với việc :
“ Phải cắt đứt mối liên hệ tuyến tính giản đơn theo kiểu nhân quả đồng thời
phải tạo ra những quãng đứt, những khoảng trống để liên tưởng và để ý nghĩa
phát sinh” và phải “ phân tích cái gì đó có khả năng cắt nghĩa chúng . Không
cắt nghĩa được lí do tồn tại và giá trị nghệ thuật của đối tượng phân tích trong
tác phẩm văn chương thì sự lựa chọn đối tượng phân tích ấy phải được coi là
không chính xác”.(9; 52;53).
Hoạt động cắt nghĩa là hoạt động quan trọng, đem lại sự tiếp nhận tác phẩm
một cách có căn cứ và có cơ sở vững chắc khẳng định giá trị của đối tượng lựa
chọn, thuyết phục cho các luận điểm bình giá.
Trong tác phẩm “Người trong bao” ta có thể lựa chọn cách cắt nghĩa nhan
đề, bố cục truyện, cách kết thúc truyện, hình tượng cái bao…để từ đó đưa ra
14
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
nhũng lí giải hợp lí. Từ nhan đề của tác phẩm, giáo viên đưa ra những câu hỏi để
học sinh cắt nghĩa như: Anh /chị hiểu nhan đề Người trong bao là gì? Để trả lời
được câu hỏi này học sinh buộc phải hiểu từng từ riêng lẻ trong nhan đề của tác
phẩm. “Bao” thông thường chỉ để vật, đồ đạc được đựng trong bao. Nên “bao”
ở đây là để chỉ bao, gói đựng hàng hóa. Vậy người trong bao theo nghĩa đen có
phải là người bị đựng trong bao không, hay đó chỉ là cách nói tượng trưng để chỉ
hai loại người: loại người thứ nhất được bao bọc và che chở với sự quan tâm quá
mức của người khác và một loại người luôn thu mình, sống ích kỉ, trong cái vỏ

bằng chứng về sức cảm hiểu thấu đáo giá trị nội dung của hình thức tác phẩm”.
(9; 153). Hoạt động cắt nghĩa phải theo định hướng: cắt nghĩa để tìm ra ý nghĩa
của văn bản, cắt nghĩa đi liền với phân tích. Hơn nữa, cắt nghĩa phải luôn luôn
đối chiếu với các bộ phận, các thành phần được cắt nghĩa với chỉnh thể của văn
bản làm bộc lộ ý nghĩa chung của toàn văn bản.
4. Biện pháp tích cực hoá hoạt động phân tích
Phân tích là một kiểu thao tác rất cơ bản của tư duy nói chung. Đối với hoạt
động tiếp nhận tác phẩm văn học, phân tích cũng là một kĩ năng không thể thiếu.
Phân tích tác phẩm văn chương là thao tác tháo gỡ tất cả những tương quan
vốn không tách rời nhau trong chỉnh thể nghệ thuật. Thao tác này chỉ thực sự có
ý nghĩa khi nó giúp cho chủ thể tiếp nhận “có cái nhìn cụ thể những yếu tố làm
nên chỉnh thể sâu hơn vì vậy mà phi căn cứ vào dự kiến các bước phát triển tư
tưởng của của nhà văn trong quan hệ thẩm mĩ với giữa tác giả và bạn đọc;
không nên căn cứ trực tiếp nhằm vào tính cụ thể sự kiện của tác phẩm”
Để hoạt động phân tích được triển khai đúng hướng, người đọc phải có hình
dung đầu tiên về cấu trúc chung của toàn bộ văn bản để từ đó phát hiện ra cái cốt
lõi nằm sau những biểu hiện bề mặt ngôn từ là gì? Giáo viên cần giúp học sinh,
dẫn dắt học sinh việc khái quát ban đầu này dựa vào phần hệ thống câu hỏi trong
sách giáo khoa để học sinh định hướng và nắm được vấn đề. Ví dụ như: Anh
(chị) có nhận xét gì về bố cục của tác phẩm “Người trong bao” của Sê Khốp?
Cách bố cục ấy có phải là cách duy nhất không? Theo anh (chị), qua các cách
anh (chị) chia bố cục như vậy anh (chị) chọn cách bố cục nào? Hay có thể hỏi:
Hãy nhận xét về sự thay đổi thái độ của người kể chuyện trong từng đoạn của
tác phẩm “Người trong bao” của Sêkhốp… Học sinh phải thực hiện theo trình
16
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
tự hệ thống các câu hỏi theo yêu cầu; Dạng câu hỏi này được giải quyết sẽ tạo
cơ sở để tiến hành các bước phân tích tiếp theo.
Sau khi nắm được cốt của văn bản và có sự hình dung trên nét lớn về mạch

5. Biện pháp tích cực hóa hoạt động bình giá
Bình giá là một trong những thao tác cơ bản, mang tính tổng hợp cao của
hoạt động đọc hiểu. Trong tiếp nhận văn học, bình giá là hoạt động hoàn tất cơ
chế tiếp nhận lĩnh hội tác phẩm văn chương. Bình giá hướng tới những giá trị
nổi bật trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Muốn kích thích được hoạt động này của học sinh, giáo viên vừa phải hạn
chế tối đa việc áp đặt kiến thức sẵn cho học sinh mà chỉ dẫn dắt để học sinh phát
huy cá tính sáng tạo trong quá trình đọc hiểu. Thêm nữa, người giáo viên vừa
phải hướng được những suy nghĩ của học sinh vào những yêu cầu bình giá.
Như trong truyện ngắn “Người trong bao”, có thể tạo điều kiện để học
sinh tự bình giá. Về mặt nội dung: Nhan đề mà tác giả Phan Hồng Giang và Cao
Xuân Hạo dịch là hợp lý. Thứ nhất là nó sát với nguyên tác nhất. Thứ hai, nếu
như so sánh với cách mà Nguyễn Hữu Vui dịch là “Người mang vỏ ốc”, ta thấy
cách dịch “Người trong bao” vừa lạ, vừa khái quát, lại ấn tượng nhất. Nhan đề
“Người mang vỏ ốc” ta đã thường thấy trong các truyện cổ tích như: Chàng
hoàng tử ếch, Nàng tiên ốc, Cóc tía lấy vợ… với cấu trúc cốt truyện là người đội
lốt vật. Hơn nữa ở đây, Sekhốp không hàm ý chỉ điều đó mà chỉ dùng hình
tượng để nói về bản chất của con người trí thức, một bộ phận trí thức của nước
Nga lúc bấy giờ đang thu mình trong bao – lối sống ích kỉ. Về mặt nội dung, đây
là truyện ngắn hay và có ý nghĩa xã hội to lớn. Nó thể hiện “nhãn quan” và
những lời “tiên tri” về xã hội thực tại ngột ngạt, đen tối và mơ ước vào một
tương lai tươi sáng hơn.
18
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
CHƯƠNG III
THIẾT KẾ GIÁO ÁN: TÁC PHẨM “NGƯỜI TRONG BAO”
CỦA SÊKHỐP
A. Mục đích-yêu cầu:
I. Về nội dung kiến thức:

phẩm.
- Nêu cảm nhận, đánh giá cá nhân về nhân vật, về tác phẩm.
C. Phương pháp và phương tiện dạy học.
1. Phương pháp:
- Đọc hiểu, cắt nghĩa, phân tích, bình giá nhân vật, tác phẩm.
- Gợi mở, dẫn dắt nêu vấn đề.
2. Phương tiện:
- Máy chiếu, tranh ảnh minh hoạ.
- Sách giáo khoa lớp 11 tập 2 - Bộ cơ bản-NXBGD.
D. Hoạt động dạy học trên lớp:
1. Ổn định tổ chức: kiểm tra sĩ số, sách vở, trang phục.
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Bài mới: Trong cuộc đời, ai cũng mong muốn được đón nhận tình cảm nồng
hậu từ những người xung quanh, và ý nghĩa cuộc sống chính là sự cảm nhận cái
tồn tại đầy ý nghĩa của mình giữa mọi người. Vậy nhưng, thấp thoáng đâu đó ta
vẫn thấy những con người cô độc vì không tìm được tiếng nói chung với đồng
loại, những cá thể hiện hữu trong cuộc đời chỉ như một thứ phiền toái mà người
ta hễ gặp là muốn tránh xa ngay. Hình ảnh những con người đó được khắc họa
sinh động qua nhân vật Bêlicốp trong tác phẩm độc đáo có tiêu đề “Người trong
bao”. Truyện ngắn này đã phác thảo thành công bức chân dung của một bộ phận
trí thức Nga sa đọa về tinh thần trong xã hội chuyên chế cuối thế kỉ XIX.
Phương pháp Nội dung cần đạt
-Giáo viên gọi học sinh
đọc tiểu dẫn sách giáo
khoa và nêu những điểm
I. Tiểu dẫn.
1. Tác giả.
- A.P.Sêkhôp (1860-1904) nhà văn Nga kiệt
xuất; sinh ra và lớn lên trong một gia đình
20

đảo Crưm, biển Đen.
21
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
Giáo viên cho học sinh
thảo luận và tìm ra bố cục
của truyện.
(?) Theo em truyện này
có thể chia bố cục như thế
nào?
- Trong khoảng thời gian sáng tác truyện này:
xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí
chuyên chế nặng nề cuối thế kỷ XIX- một
môi trường sinh ra những kiểu người kỳ quái.
“Người trong bao” Bê-li-cốp là một phát hiện
nghệ thuật độc đáo, đặc sắc của nhà văn.
- Đây là một trong 3 truyện ngắn có chung chủ
đề: phê phán lối sống tầm thương dung tục,
tiểu tư sản của một kiểu người - một bộ phận
trí thức trong xã hội Nga những năm cuối của
thế kỷ XIX. Đó là các truyện: “khóm phúc
bổn tử”; “một chuyện tình yêu”; “người trong
bao”.
3. Phân tích tác phẩm.
* Bố cục:
c1: Truyện có thể chia làm 3 đoạn.
+ Đoạn 1: Mở truyện:( đoạn này đã được
lược thuật ).
Nội dung: Cuộc trò chuyện ở gian nhà kho,
trong đêm đi săn về muộn giữa hai người bạn

Burơkin soi ngắm chính mình; tất cả các nhân
vật đền nằm trong bao dù họ ý thức được hoặc
không ý thức được.
Tác phẩm kết thúc bằng cái chết của Bêlicốp và
hình ảnh con người trong thành phố lại trở lại
như cũ, bất lực trước cuộc sống hiện tại: nặng nề,
mệt nhọc và vô vị. Kết luận cuối cùng của bác sĩ
I-va-nút khép lại truyện: “Không thể sống mãi
như thế được”.
2. Phân tích.
a. Chân dung và tính cách của Bêlicốp nhân
vật trung tâm của truyện.
23
Bài tập niên luận Nguyễn Thị Mai Anh - CLC K55
Ngữ văn
* Nội dung.
+ Địa vị xã hội:
- Bêlicốp là giáo viên dạy tiếng Hi Lạp ở một
trường thuộc một thành phố tỉnh lẻ, dạy một
thứ tiếng lỗi thời, một ngôn ngữ đã chết.
- Nhỏ bé về địa vị xã hội, là một trí thức nghèo;
luôn ca ngợi quá khứ, đóng khung cuộc sống
hiện tại, trong sự trí tuệ, ngưng đọng.
 Bêlicốp lấy quá khứ làm cái bao để che
dấu mình và chạy trốn mọi người, chạy
trốn hiện tại. Lấy địa vị xã hội thấp bế
để che đậy nhân cách thấp hèn.
+ Ngoại hình:
- Hắn nổi tiếng cả thành phố về cách tô điểm
ngoại hình kì quái.

nghị.
+ Buồng ngủ: chật như cái hộp.
+ Khi nằm ngủ: hắn kéo chăn trùm đầu kín mít.
+ Năm trong chăn hắn cảm thấy lòng rợn rợn. Hắn
sợ nhỡ ra lại có chuyện gì, sợ kẻ trộm chui vào nhà,
đêm mơ toàn chuyện khung khiếp; sáng ra, mặt hắn
nhợt nhạt, rầu rĩ.
 Hắn sinh hoạt rất bị động không giám
sống cho mình, sống theo mình; sợ
người xung quanh dị nghị, ám hại =>
Hắn tự chui vào một cái bao ích kỉ,
khắc kỉ.
*Tính cách của Bê-li-cốp:
-Bê-li-cốp nhút nhát, ghê sợ hiện tại nhưng lại ngợi
ca, tôn sùng quá khứ (say mê một thứ tiếng đã chết
như tiếng Hi Lạp cổ là một ví dụ).
- Hắn chỉ thích sống theo những thông tư, chỉ thị
một cách máy móc, giáo điều, rập khuôn như cái
máy vô hồn => Tính cách này được đẩy lên cao hơn
25

Trích đoạn Nghệ thuật:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status