463 Thực trạng và những yếu tố tác động đến người nghèo ở tỉnh Ninh Thuận - Pdf 25

1

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHÈO ĐÓI
1.1. Khái niệm nghèo đói 1
1.2. Các phương pháp xác đònh đối tượng nghèo hiện nay 3
1.3. Nguyên nhân của nghèo đói 6
1.4. Những nét chính về tình hình nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam 13
Chương 2: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ THỰC TRẠNG NGHÈO
ĐÓI VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH
THUẬN
2.1. Đặc điểm đòa bàn nghiên cứu 26
2.2. Phương pháp phân tích 28
2.3. Mô hình kinh tế lượng 30
2.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 35
2.4.1. Mô tả dữ liệu điều tra ở Ninh Thuận, 2004 35
2.4.2. Đặc điểm của người nghèo và nguyên nhân nghèo ở Ninh Thuận 37
2.4.3. Tình trạng nghèo phân theo khu vực 39
2.4.4. Tình trạng nghèo phân theo các nghề nghiệp chính của hộ gia đình 41
2.4.5. Tình trạng nghèo phân theo trình độ học vấn 43
2.4.6. Giới tính của chủ hộ 46
2.4.7. Những đặc điểm về nhân khẩu học ở Ninh Thuận 49
2.4.8. Nghèo phân theo thành phần dân tộc 51
2.4.9. Khả năng tiếp cận các điều kiện sinh sống cơ bản 53
2.4.10. Khả năng tiếp cận các nguồn lực 59
2.4.11. Kết quả mô hình kinh tế lượng 66
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ NÂNG CAO MỨC
SỐNG DÂN CƯ Ở NINH THUẬN
3.1. Việc làm 71

ra đời.
Mục tiêu của nghiên cứu bao gồm ba phần: Phần thứ nhất là đánh giá tình trạng
nghèo thông qua các đặc điểm của hộ như nghề nghiệp, học vấn, dân tộc… đồng
thời phải chỉ ra được mức độ nghèo của các hộ gia đình ở Ninh Thuận thông qua
các chỉ tiêu chuẩn về mức sống như nhà ở, nguồn nước, điện, nhà vệ sinh... Phần
thứ hai là xác đònh được những yếu tố có tác động đến nghèo và đònh lượng tác
động độc lập của từng yếu tố đó. Cuối cùng là cung cấp một số gợi ý cho chính
sách từ kết quả phân tích. Riêng về mặt ứng dụng, nghiên cứu này ngoài việc
cung cấp những gợi ý làm cơ sở cho việc lựa chọn chiến lược phát triển, nó còn
tổng hợp lại phương pháp dùng để đònh lượng nghèo. Đồng thời nghiên cứu cũng
gián tiếp chỉ ra các hướng nghiên cứu kế tiếp để những nghiên cứu sau lựa chọn
nhằm đạt được hiệu quả ứng dụng cao.
Trong nghiên cứu này, tác giả dùng phương pháp mô tả thống kê và lập mô hình
kinh tế lượng để phân tích nghèo. Bộ số liệu dùng trong nghiên cứu được điều
tra lấy mẫu trực tiếp ở Ninh Thuận. Phần mềm SPSS11.5 và Eview3.0 được sử
dụng để lập bảng biểu và chạy mô hình.
3

Nghiên cứu gồm có ba chương. Chương 1 trình bày những nét tổng quan về
nghèo đói. Trong phần này, ngoài những khái niệm, còn có điểm qua thực trạng
nghèo khổ của các nước trên thế giới và Việt Nam. Chương 2 là phần quan trọng
nhất của luận văn, phần này giới thiệu phương pháp nghiên cứu và trình bày kết
quả nghiên cứu. Trong đó, mô hình hồi quy bội được sử dụng để ước lượng tác
động của nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia đình ở Ninh Thuận;
mô hình logistic được dùng để phân tích tác động độc lập của các yếu tố đến xác
suất nghèo của một hộ gia đình ở Ninh Thuận. Chương 3 là phần kết của luận
văn, nêu ra một số gợi ý để lựa chọn cho chiến lược giảm nghèo ở đòa phương.
Phần này tuy được xem như kết của luận văn này nhưng mở ra những hướng
nghiên cứu tiếp theo trên cơ sở kết quả có được. Chẳng hạn như vấn đề chăn
nuôi trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn, khả năng phát triển dòch vụ du

dụng điện. Đây là con số tương đối khả quan nhưng chưa phản ánh được tổng thể
do thiếu các hộ ở vùng sâu, vùng cao.
Có ít hơn một nửa hộ nghèo có đất. Mà nếu có thì diện tích cũng rất nhỏ và
thường là cho thuê hoặc không canh tác. Nhiều hộ nghèo được vay vốn nhưng số
vốn nhỏ và không dùng cho sản xuất nên hầu như không trả được nợ. Theo đánh
giá của chính các hộ thì ít đất và thiếu vốn là hai khó khăn lớn nhất đối với quá
trình canh tác cũng như làm ăn của họ.
Kết của cả hai mô hình kinh tế lượng đều cho thấy tình trạng đói nghèo ở Ninh
Thuận chòu ảnh hưởng nhiều nhất từ năm yếu tố là: việc làm, sở hữu đất đai, khả
năng tiếp cận vốn chính thức, vấn đề dân tộc thiểu số, quy mô hộ và giới tính
của chủ hộ. Mô hình hồi quy những yếu tố tác động đến chi tiêu cho thấy một hộ
có việc làm sẽ có chi tiêu bình quân đầu người cao hơn 50% so với hộ không có
việc làm. Một hộ có đất canh tác sẽ có chi tiêu bình quân cao hơn khoảng 27%
so với hộ không có đất. Hộ được vay vốn sẽ có cơ hội tăng chi tiêu của mình lên
khoảng 13%. Hộ có chủ hộ là nam giới thì chi tiêu bình quân sẽ cao hơn hộ có
chủ hộ là nữ khoảng 22%. Tương tự, mô hình logistic cho thấy xác suất nghèo
của những hộ có việc làm, có đất, có vay vốn sẽ có khả năng nghèo thấp hơn so
với trường hợp ngược lại; những hộ là dân tộc thiểu số, quy mô gia đình lớn, chủ
hộ là nữ sẽ có nhiều khả năng nghèo. Ví dụ, xác suất nghèo ban đầu của một hộ
gia đình ở Ninh Thuận là 30%, khi các yếu tố khác không thay đổi, nếu hộ có
việc làm thì xác suất nghèo sẽ chỉ còn 7,8%. Còn nếu quy mô hộ tăng thêm một
người thì xác suất rơi vào cảnh nghèo của hộ này sẽ lên đến 39%.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi gợi ý rằng những chính sách nhằm vào người
nghèo nên có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp để làm tăng cơ hội có việc làm,
tăng cơ hội được sử dụng đất để canh tác, tăng khả năng tiếp cận với nguồn vốn
chính thức, giảm những khác biệt giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh,
giảm quy mô hộ và giảm những gánh nặng bất công dành cho phụ nữ. Việc lựa
chọn chính sách sẽ theo thứ tự ưu tiên như trên nếu nguồn lực hạn chế không đủ
để thực hiện toàn bộ. Từ đây chúng tôi cũng gợi ý rằng để phát triển kinh tế
trong tương lai, Ninh Thuận cũng cần quan tâm nhiều đến những vấn đề này.
6

Chương 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG VỀ NGHÈO
ĐÓI
1.1. Khái niệm nghèo đói:
Khái niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia
hay từng vùng, từng nhóm dân cư nhìn chung không có sự phân biệt đáng kể.
Tiêu chí chung nhất để xác đònh nghèo đói là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa,
đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở
mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế -
xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Ở Việt Nam, một khái niệm về đói nghèo thường được sử dụng là khái
niệm được đưa ra tại hội nghò về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế xã hội khu
vực châu Á - Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993 và được các quốc
gia trong khu vực thống nhất. Khái niệm này cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng
một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa
nhận.”
Tương tự với quan điểm trên là quan điểm của nhà kinh tế học người Mỹ
Galbraith: “Con người bò coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi
thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi
đó, họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như là cái cần thiết


Đừng hỏi tôi đói nghèo là gì vì ông đã thấy nó ngay từ bên ngoài nhà tôi. Hãy quan sát
ngôi nhà và xem nó có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và
những quần áo tôi đang mang trên người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ông
thấy. Cái mà ông thấy chính là đói nghèo đó.


Một người nghèo ở Kênia

Nghèo đói là sự hổ thẹn, cảm giác phải phụ thuộc vào người khác và buộc phải chấp
nhận sự bạo hành, sỉ nhục, thái độ thờ ơ khi tìm kiếm sự giúp đỡ.


Một người nghèo ở Latvia

Nghèo đói đồng nghóa với nhà ở bằng tranh, tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát;
không đủ đất đai sản xuất, không có trâu bò, không có Tivi, con cái thất học, ốm đau
không có tiền đi khám chữa bệnh…


Một người nghèo ở Việt Nam
Tóm lại, tất cả những quan niệm về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba
khía cạnh chủ yếu của người nghèo:
• Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
• Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con
người
• Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
8

1.2. Các phương pháp xác đònh đối tượng nghèo hiện nay:

điều tra chi tiết và cuộc tổng điều tra dân số cùng thời kỳ. Thứ hai, tiến hành
phân tích thống kê để đánh giá mối quan hệ giữa mức chi tiêu bình quân đầu
người với những biến số này. Bước thứ ba là dùng những kết quả phân tích để
“dự báo” chi tiêu của hộ có trong tổng điều tra dân số. Mức chi tiêu dự báo này
dùng để đánh giá xem một hộ có nghèo hay không. Về mặt này, vẽ bản đồ vẫn
9

là một phương pháp dựa vào chi tiêu, nhưng nó dựa vào mức chi tiêu dự báo, chứ
không phải là chi tiêu thực tế của hộ. Phương pháp vẽ bản đồ nghèo cho phép
tính được tỷ lệ nghèo ở cấp thấp, được đo bằng tỷ lệ hộ nghèo trong tổng điều
tra dân số của mỗi tỉnh, huyện, thậm chí cả xã. Nhưng phương pháp này cũng
không thực sự là hoàn hảo bởi lẽ chi tiêu dự báo chỉ có thể ước tính với sai số.
• Phương pháp dựa vào thu nhập
Việc áp dụng nghiêm ngặt phương pháp tính theo thu nhập do Bộ
LĐTBXH đưa ra để đo mức nghèo có thể xếp vào loại này. Trên nguyên tắc,
phương pháp của Bộ LĐTBXH dựa trên điều tra gồm những câu hỏi về tài sản
và về thu nhập từ các nguồn khác nhau. Thu nhập từ tất cả các nguồn này được
cộng lại, chia cho số người trong hộ, và so sánh với một trong ba chuẩn nghèo
tùy theo xã đó thuộc vùng nào. Ở thành thò, chuẩn nghèo hiện nay là 150.000
đồng một tháng. Ở nông thôn vùng đồng bằng, chuẩn nghèo là 100.000 đồng, ở
miền núi, vùng sâu và hải đảo là 80.000. Những hộ có thu nhập hàng tháng thấp
hơn 50.000 đồng được xếp vào hộ đói ở mọi vùng. Tỷ lệ nghèo có thể được tính
bằng tỷ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo trong xã, huyện, hoặc tỉnh. (Quyết đònh
số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000, áp dụng từ năm 2001)
Phương pháp này bò phê phán vì hai lý do: Thứ nhất, về mặt lý luận, các
mốc thu nhập dùng để phân loại hộ nghèo ở những loại xã khác nhau có tính chủ
quan, và chưa chắc đã so sánh được. Một hộ thành thò có thu nhập đầu người
150.000 đồng một tháng có thể nghèo hơn hoặc giàu hơn một hộ có thu nhập là
80.000 đồng một tháng ở vùng sâu hay miền núi. Nhưng trên thực tế, phương
pháp của Bộ LĐTBXH không được áp dụng đồng nhất ở các đòa phương. Điển

gây thiệt thòi cho con cái của họ, những người hoàn toàn không có lỗi trong việc
cha mẹ chúng nghiện rượu hay không chòu làm việc.
• Xếp hạng giàu nghèo
Phương pháp này thường được sử dụng nhiều nhất trong các PPA
(Participatory Poverty Assessment), bao gồm một tập hợp những nhận xét về
hiện trạng của tất cả các hộ trong một cộng đồng. Ở Việt Nam, cộng đồng tiêu
biểu nhất là thôn. Một tỷ lệ đáng kể các hộ trong cộng đồng sẽ tập hợp nhau lại
để xếp thứ tự, hoặc thường là phân loại các hộ trong số đó. Trong những PPA
được thực hiện, những người tham dự được chọn sao cho có đủ nam, nữ, người
già, trẻ em, người nghèo và không nghèo. Đại diện của chính quyền đòa phương,
thường có cả trưởng thôn cũng tham gia. Những cán bộ xã hội từ những tổ chức
phi chính phủ, hoặc các tổ chức nghiên cứu trong nước, đã làm quen với xã và
những vấn đề chính ảnh hưởng đến đời sống của các hộ trong đó, đứng ra làm
đầu mối liên hệ.
Việc phân loại hộ thường được thực hiện thông qua thảo luận nhóm nhằm
chỉ ra những đặc tính của người nghèo. Sau đó, những tờ phiếu có ghi tên tất cả
các hộ trong thôn được phân phát cho các đại biểu tham dự để họ phân loại hộ
vào các nhóm. Cuối cùng, trường hợp những hộ được phân loại khác nhau bởi ít
nhất hai thành viên sẽ được đem ra thảo luận trong cả nhóm. Việc thảo luận
nhằm tìm hiểu nguyên nhân của việc khác nhau, và tìm kiếm sự nhất trí liên
quan đến phân loại phù hợp cho mỗi trường hợp. Do vậy, công tác xếp hạng giàu
nghèo mang tính toàn diện hơn những phương pháp chỉ dựa vào chi tiêu hay thu
11

nhập không thôi, và khách quan hơn phương pháp tự đánh giá hoặc phân loại bởi
chính quyền đòa phương. Tuy nhiên, phương pháp này có chi phí cao nhất.
1.3. Nguyên nhân của nghèo đói
Hiện rất khó để có thể chỉ ra được tất cả những nguyên nhân của nghèo.
Và cũng khó để phân biệt trong những yếu tố cơ bản có ảnh hưởng đến nghèo
thì đâu là nguyên nhân còn đâu là kết quả, cũng như sự tác động qua lại của

12

đảm bảo. Những hộ sống nhờ vào những nguồn thu thất thường như làm thuê
theo ngày luôn cảm thấy thiếu an toàn kinh tế. Những hộ nghèo là những hộ có
đặc điểm này. Có thể nói rằng, thu nhập thấp và thất thường có thể làm cho một
hộ trở nên nghèo hơn.
• Trình độ học vấn thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt, ổn đònh. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đủ để ăn và
do vậy không có điều kiện để học tập nâng cao trình độ nhằm vươn lên thoát
nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp còn ảnh hưởng đến các quyết đònh có
liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ
em và trẻ sơ sinh cao, khả năng đến trường của trẻ em gia đình nghèo thấp sẽ
làm cho các giải pháp thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn.
Bảng 1.1: Trình độ học vấn của người nghèo ở Việt Nam 1998
Trình độ học vấn cao nhất Tỷ lệ nghèo (%)
Tỷ lệ tính trong tổng
số người nghèo (%)
Tỷ lệ trong tổng dân
số (%)
Không được đi học
Tiểu học
Phổ thông cơ sở
Phổ thông trung học
Dạy nghề
Đại học
Tổng cộng
57
42
38

kiến thức kỹ thuật, kỹ năng làm việc và nắm bắt thông tin. Các nghiên cứu đói
nghèo có sự tham gia của người dân (PPA) trước đây đã cho thấy rằng những hộ
thuộc nhóm khá giả là những hộ thường xuyên tiếp xúc với cán bộ khuyến nông,
quan hệ với những người ở ngoài cộng đồng, tiếp cận với thông tin và với các
phương tiện truyền thông đại chúng.
13

1.3.2. Thiếu khả năng tiếp cận các nguồn lực
Người nghèo thường thiếu nguồn lực nhưng không có khả năng tiếp cận
nguồn lực. Không có nguồn lực để đầu tư, người nghèo lại càng nghèo hơn. Do
đó, họ thường rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực.
• Thiếu đất
Hầu hết người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp cho nên diện tích và
chất lượng đất đóng vai trò quyết đònh đến mức sống của hộ. Không có đất,
thiếu đất, đất đai xấu hoặc không có quyền canh tác trên đất sẽ ngăn các hộ
phát triển các hoạt động nông nghiệp và đó là lý do khiến cho nhiều hộ nông
dân rơi vào hoàn cảnh không thể sản xuất đủ lương thực hoặc tạo ra thu nhập đủ
để nuôi sống gia đình họ.
Thêm vào đó, người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dòch vụ
sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư nên vẫn thường sản xuất theo kiểu tự
cung tự cấp mà không có một phương án sản xuất nào có thể mang lại lợi nhuận
cao hơn. Do vẫn theo phương pháp truyền thống nên năng suất và giá trò cây
trồng, vật nuôi thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thò trường và kết quả là họ dễ
rơi vào nghèo khổ hơn.
Theo luật pháp Việt Nam hiện nay, đất không thuộc quyền sở hữu của hộ
nhưng họ được giao quyền sử dụng đất trong thời gian dài (thường từ 20 đến 50
năm tùy thuộc vào từng loại đất) và họ cũng có quyền chuyển nhượng. Người
nghèo do không có khả năng sản xuất và túng thiếu nên thường chuyển nhượng
quyền sử dụng cho các hộ giàu. Chính vì vậy mà dù người dân được chia đất một
cách bình đẳng theo các tiêu chuẩn quốc tế thì những hộ nghèo vẫn thường có ít

thường bò hạn chế trong việc tiếp cận được với các nguồn tín dụng chính thức
của chính phủ trong lúc các nguồn phi chính thức có ít khả năng giúp hộ gia đình
thoát nghèo. Mặc dù hiện nay có rất nhiều nguồn, nhiều dự án cung cấp tín dụng
cho người nghèo thông qua các chương trình quốc gia về XĐGN nhưng vẫn còn
rất nhiều người rất nghèo không thể tiếp cận được các nguồn tín dụng này.Có
nhiều nguyên nhân, loại trừ sự nhũng nhiễu của người có quyền quyết đònh thì
nguyên nhân còn lại là do người nghèo thiếu hiểu biết, thiếu hiểu biết, không có
khả năng thế chấp, không biết cách làm ăn dẫn đến không có khả năng trả nợ.
Và rồi họ tiếp tục nghèo hơn.
“Nợ nần làm cho chúng tôi thức trắng đêm - cảm giác nợ nần thật là khủng
khiếp. Tôi cảm thấy khiếp sợ mỗi khi có chủ nợ đến nhà đòi tiền còn bản thân
thì không thể trả được. Tôi cảm thấy xấu hổ vì lúc đó họ rất coi thường tôi.”
(PPA tại Trà Vinh, Oxfam Anh).
1.3.3. Những đặc điểm về nhân khẩu học
• Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ
em
Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng đói nghèo trên tất cả các
mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ em gái phải gánh
chòu thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ
trọng cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Thế
nhưng chỉ có 25% phụ nữ tham gia các khóa khuyến nông về chăn nuôi và 10% 1
Tham khảo (Phạm Vũ Lửa Hạ, 2003 trong Làm gì cho nông thôn Việt Nam?), (Trần Văn Bích, 1999
trong Hộ gia đình Việt Nam nhìn qua phân tích đònh lượng) và Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và
xóa đói giảm nghèo của Việt Nam 11/2003.
15


chưa cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình
dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia
tăng nhân khẩu còn hạn chế.
Cũng theo chu kỳ của đời sống gia đình thì những hộ mới tách riêng có
khả năng nghèo nhiều hơn, đặc biệt là những hộ sinh sống bằng nông nghiệp.
Ban đầu các hộ này thường phải nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình để sử dụng đất
16

nông nghiệp nhưng thường là diện tích đất nhỏ hoặc kém chất lượng. Trong khi
đó cơ hội làm ăn phi nông nghiệp lại ít. Mức tăng thu nhập dưới dạng tiền công
làm thuê thường rất thấp và không ổn đònh. Điều này không cho phép họ có đủ
khả năng trang trải cho nhu cầu tiêu dùng tối thiểu.
Những hộ bò mất đi lao động chính do bò chết, bỏ gia đình đi hay tách hộ
cũng thường được xếp vào nhóm hộ nghèo nhất (Báo cáo phát triển Việt Nam
2000, tr.24). Số liệu của ĐTMSDC 1998 cho thấy những hộ này thường là có chủ
hộ là nữ và phụ nữ sống độc thân phần lớn là nghèo hơn so với nam giới sống
độc thân.
1.3.4. Sự cách biệt với xã hội
Cách biệt với xã hội thường thể hiện ở hai mặt là quan hệ xã hội và
khoảng cách đòa lý. Trong mối quan hệ xã hội, hộ nào có được mối quan hệ tốt
hơn với những người xung quanh thì có thể được giúp đỡ, hỗ trợ trong những thời
điểm khó khăn. Điều này càng có ý nghóa đặc biệt đối với những hộ ở vùng sâu,
vùng xa, vùng cao, nơi mà những hỗ trợ chính thức từ chính quyền thường đến
rất chậm. Ở vùng trung du và đồng bằng, những hộ quan hệ tốt và gần gũi với
giới chức lãnh đạo đòa phương sẽ có vò thế tốt khi tiếp cận với các chương trình
và dòch vụ hỗ trợ của chính phủ hơn.
Cách biệt về đòa lý làm cho các hộ hạn chế giao lưu với thế giới bên
ngoài và hầu như không có điều kiện để tiếp xúc những sáng kiến hay thông tin
mới. Các số liệu thu được từ ĐTMSDC 1998 cho thấy hầu hết người dân sống ở
các làng xã có điều kiện đi lại được. Chỉ có 4% sống ở các làng bản xa đường

75
23
69
0
20
40
60
80
100
Người Kinh Dân tộc thiểu số
chỉ số đếm đầu người (%)
1993
1998
2002

Nguồn: Ước tính của Ngân hàng thế giới dựa vào số liệu của ĐTMSDC93 và ĐTMSDC98Số liệu ĐTMSDC93 và ĐTMSDC98 cho thấy tỷ lệ nghèo đói ở các dân
tộc ít người cao hơn gấp 2 lần so với người Kinh (75% so với 31%). Tốc độ giảm
nghèo của nhóm dân tộc thiểu số ở giai đoạn 1993-1998 cũng chậm hơn (11% so
với 23%). Gay gắt hơn, số liệu ĐTMSHGĐ 2002 cho thấy tỷ lệ nghèo đói của
các dân tộc ít người là gấp 3 lần so với người Kinh. Sở dó có tình trạng như vậy
là do trong khoảng thời gian từ 1998-2002, tốc độ giảm nghèo ở nhóm dân tộc
thiểu số vẫn tiếp tục chậm hơn (6% so với 8%).

1.4. Những nét chính về tình hình nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình nghèo đói trên thế giới
Thế giới có một sự đói nghèo sâu sắc xen lẫn sự giàu có (World
Development Report 2000/2001). Đó có lẽ là nghòch lý lớn nhất trong một xã hội

13,3% dân số châu lục này)…
Trên thực tế, nghèo đói và quá trình giảm nghèo đói ở những phần khác
nhau của thế giới thì khác nhau rất xa (Bảng 1.3). Ở Đông Á, số dân sống dưới
mức 1 USD một ngày đã giảm từ khoảng 420 triệu người xuống còn khoảng 280
triệu người từ năm 1987 đến 1998. Nhưng ở Mỹ Latinh, Nam Á và Nam Sahara
châu Phi, số người nghèo đang tăng lên. Tại các nước châu Âu và Trung Á đang
chuyển sang nền kinh tế thò trường, số người sống dưới mức 1 USD một ngày đã
tăng hơn 20 lần. 19

Bảng 1.3: Đói nghèo theo thu nhập, phân theo vùng trong một số năm, giai đoạn 1987-1998
Số người sống dưới 1 USD một ngày (triệu)
Vùng
1987 1990 1993 1996 1998
a
Đông Á và Thái Bình Dương
Trừ Trung Quốc
Châu Âu và Trung Á
Mỹ Latinh và Caribê
Trung Đông và Bắc Phi
Nam Á
Nam Sahara châu Phi
Tổng
Trừ Trung Quốc
417,5

5,0
531,7
289,0
1,190,6
980,5
287,3
65,1
24,0
78,2
5,5
522,0
290,9
1.198,9
985,7
Số người sống dưới 1 USD một ngày (%)
Vùng
1987 1990 1993 1996 1998
a
Đông Á và Thái Bình Dương
Trừ Trung Quốc
Châu Âu và Trung Á
Mỹ Latinh và Caribê
Trung Đông và Bắc Phi
Nam Á
Nam Sahara châu Phi
Tổng
Trừ Trung Quốc
26,6
23,9
0,2

48,6
24,5
27,0
15,3
11,3
5,1
15,6
1,9
40,0
46,3
24,0
26,2
a. Tính sơ bộ
Nguồn: Ngân hàng thế giới 2000a

Từ năm 1987 đến năm 1998, tỷ lệ dân số của các nền kinh tế đang phát
triển và đang chuyển đổi sống dưới mức 1 USD một ngày đã giảm từ 28% xuống
còn 24%. Mức giảm này thấp hơn mục tiêu quốc tế đề ra là đến năm 2015 giảm
được một nửa số người nghèo cùng cực theo thu nhập.
Do tăng trưởng dân số nên khó thay đổi số người sống trong cảnh đói
nghèo. Nhưng kết quả đạt được cũng khác nhau xa giữa các khu vực. Đông Á,
Trung Đông và Bắc Phi đều đã giảm được số người nghèo, giảm mạnh nhất là
Đông Á. Nhưng trong những khu vực khác thì số người sống dưới 1 USD một
ngày lại tăng. Ví dụ như ở Nam Á, số người nghèo trong thập kỷ vừa qua đã tăng
từ 474 triệu người lên 522 triệu, mặc dù tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 45%
xuống còn 40%. Ở Mỹ Latinh và Caribê, số người nghèo đã tăng khoảng 20%.
Có hai khu vực đặc biệt yếu kém. Tại châu Âu và Trung Á, số người
trong diện đói nghèo đã tăng mạnh từ 1,1 triệu lên đến 24 triệu. Tại Nam Sahara
châu Phi, số người nghèo tăng từ mức đã cao là 217 triệu lên đến 291 triệu trong
cùng thời gian đó, khiến gần một nửa số dân của châu lục này là người nghèo.

đã tăng được tỷ trọng số học sinh học tiểu học từ 77% lên trên 100% trong giai
Năm 1987
Nam Á
40,1%
Trung
Đông và
Bắc Phi
0,8%
Đông Á
và Thái
Bình
Dương
35,3%
Châu Phi
Hạ Sahara
18,4%
Châu Âu
và Trung
Á
0,1%
Châu Mỹ
Latinh và
vùng
Caribê
5,4%
Năm 1998
Châu Âu
và Trung
Á
2%

1.4.2.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế
Đấu tranh chống nghèo đói hiện đang là vấn đề rất cấp bách không chỉ
của riêng một vùng hay một quốc gia nào mà còn là của toàn thế giới. Điều này
xảy ra vì hai nhu cầu bức thiết chính: Một là, nghèo đói ở từng vùng, từng quốc
gia đang ngày ngày đe dọa đến sự ổn đònh và an toàn xã hội. Muốn tránh được
xung đột xã hội có thể xảy ra, mỗi vùng hay mỗi quốc gia phải quan tâm đến
việc giảm nghèo khổ, điều hòa lợi ích giữa các nhóm dân cư không để khoảng
cách giàu nghèo quá lớn, quá sức chòu đựng của xã hội. Hai là, xu thế toàn cầu
hóa đang buộc các quốc gia phải mở rộng tính dân chủ. Khẩu hiệu chung về một
xã hội công bằng có trật tự kinh tế và phân phối tiến bộ khiến cho các quốc gia
phải có những chính sách, những hành động cụ thể để hội nhập.
Vì vậy, một mặt việc xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của chính phủ
từng nước; mặt khác, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), chương trình phát triển
của Liên hiệp quốc (UNDP)… giữ vai trò quan trọng giúp các quốc gia giảm bớt
gánh nặng nghèo đói.
Biện pháp đầu tiên thường được sử dụng là chu cấp các khoản vay có gắn với
các điều kiện giải ngân theo các chương trình xóa đói giảm nghèo. Đây được đánh
giá là một biện pháp trực tiếp và có nhiều yếu tố tích cực nếu quá trình tổ chức thực
hiện hạn chế được lãng phí và tham nhũng của các quan chức trung gian.
Tiếp theo đó là những nỗ lực của các quốc gia công nghiệp phát triển.
Hội nghò thượng đỉnh Rio năm 1992 đã đề ra một công ước chung, theo đó viện
trợ phát triển cho các quốc gia nghèo thuộc thế giới thứ ba cần phải chiếm 0,7%
tổng sản phẩm xã hội của các quốc gia công nghiệp phát triển với mục tiêu đóng
góp vào việc giảm số người nghèo trên thế giới. Tính đến cuối thế kỷ XX, quốc
gia dẫn đầu về thực hiện Công ước này là Hà Lan và Thụy Điển, họ chi tới trên
0,8% GNP. Các nước khác như Anh đã chi trong năm 1999 là 0,24%, sang năm
22

2000 tăng lên 0,31%. Sau đó là Thụy Só 0,34%, Pháp 0,33%. Riêng Cộng hòa

toàn đưa ra những lời hứa hão với các nước nghèo của thế giới thứ ba về viện
trợ, giảm nợ và thương mại. Lời nói còn cách quá xa so với việc làm cụ thể.
Khoảng 11% hàng hóa xuất khẩu của các nước nghèo (LDC) phải chòu mức thuế
quan trên 15%, cao gấp ba lần thuế quan đánh vào hàng hóa cùng loại nhập từ
các nước khác. Các nước công nghiệp phát triển thuộc tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) hứa tăng hỗ trợ phát triển cho các nước LDC lên 0,2%
23

GNP của họ. Nhưng kể từ đó cho đến nay, OECD đã giảm 3,5 tỷ USD, và mức
viện trợ bình quân đầu người của họ đã giảm. Trong khi đó họ lại trợ giá nông
sản (thường là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước nghèo) trong nước lên
tới 1 tỷ USD/ngày, tương đương với tổng GDP của tất cả các nước LDC.
1.4.2.2. Kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước
Cuộc đấu tranh chống nghèo khổ đang ngày càng được chú trọng và trở
thành vấn đề chung của mọi quốc gia, nhưng cho đến nay các quan niệm về
nghèo đói, cũng như các giải quyết, lựa chọn biện pháp xóa đói giảm nghèo
cũng rất khác nhau.
• Tuynidi
Trong 25 năm cuối cùng của thế kỷ 20, Tuynidi đã tăng được gấp đôi
GDP, chẳng những thế mà còn giảm được tỷ lệ tăng dân số xuống dưới
2%/năm, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp. Người nghèo đói ở Tuynidi được hưởng
trợ cấp lương thực của chính phủ. Theo quan điểm của chính phủ Tuynidi, việc
duy trì chính sách trợ cấp lương thực cho người nghèo đói là mục tiêu lâu dài
chưa thể xóa bỏ ngay được. Điều đó xuất phát từ nhu cầu thiết thực nhằm ổn
đònh chính trò và xã hội để phát triển kinh tế. Những chính sách cải cách kinh tế
của chính phủ Tuynidi đều gắn liền với các chương trình xã hội, và chính sách
xã hội đến lượt nó đã thực sự có tác động tích cực trở lại. Chẳng hạn, do phát
triển y tế và giáo dục mà chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện; do chú ý
đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nên kinh tế có điều kiện phát triển khắp
các vùng từ nông thôn đến thành thò; thực thi hiệu quả những chính sách nhằm

nhìn chung cho đến năm 1993 thì hệ số Gini vẫn không quá lớn, chỉ khoảng trên
0,31.
Trong những năm 90, Hàn Quốc đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong
công cuộc giảm đói nghèo: tỷ lệ đói nghèo ở thành thò đã giảm trung bình xuống
còn 20% một năm trong giai đoạn 1990-1997 và không có sự gia tăng bất bình
đẳng. Nhưng khi khủng hoảng nổ ra thì thất nghiệp và đói nghèo đã tăng lên
nhanh chóng. Diện đói nghèo ở khu vực thành thò đã tăng gấp đôi từ 9% năm
1997 lên đến 19,2% năm 1998. Thất nghiệp tăng từ 2,6% trong quý 2 năm 1997
lên tới đỉnh điểm là 8,7% vào đầu năm 1999. Mức lương thực tế giảm 20,7%.
Chính sách tài khóa mở rộng năm 1998 và 1999 đóng vai trò thiết yếu để ngăn
chặn suy thoái kinh tế. Chi tiêu cho bảo trợ xã hội đã tăng ba lần – từ 0,6% năm
1997 lên 2,0% năm 1999. Chính phủ đã sử dụng ba công cụ bảo trợ xã hội chính
để giúp đỡ người thất nghiệp, người nghèo và người già. Đó là: Mở rộng chương
trình bảo hiểm thất nghiệp, tạo ra thêm việc làm công cộng và ban hành chương
trình bảo đảm nguồn sống. Và những chương trình như vậy được đánh giá là đã
có tác động tốt tới người nghèo. Tính đến cuối năm 2001, tỷ lệ nghèo đếm đầu ở
Hàn Quốc chỉ có 4% và GDP bình quân đầu người là 19.400 USD.
Rõ ràng Hàn Quốc là nước tiêu biểu cho chính sách phát triển kinh tế bứt
lên trước, xử lý nghèo đói theo sau và đã có những thành công nhất đònh.
• Bangladesh
Là một nước nông nghiệp, dân số khoảng 120 triệu, trên 80% sinh sống
tại nông thôn và bằng nghề nông, thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 120-
150 USD năm 1999, trên 50% số hộ nông dân không có ruộng, cuộc sống của
phần lớn trong số họ nằm dưới mức nghèo khổ. Nhưng từ khi xuất hiện hình thức
25

cấp tín dụng cho người nghèo của Grameen Bank (năm 1976), mà người đặt nền
móng là giáo sư Yunus, trường đại học Chittagong, người nghèo ở Bangladesh
đã được hưởng một sự giúp đỡ thật sự hiệu quả.
Theo thống kê đến tháng 10 năm 2003, hai mươi năm sau ngày chính thức

những năm 80, nghèo tuyệt đối ở thành thò chỉ có 0,3% trong khi nghèo tuyệt đối
ở nông thôn là 28%). Do sự di cư nông thôn ra thành thò bò hạn chế cho nên việc
phát triển nông thôn là yếu tố quan trọng nhất để giảm nghèo. Vào những năm
đầu của thập niên 80, khi mà tăng trưởng khu vực nông thôn nở rộ do những cải

Trích đoạn Kết quả ước lượng tham số mô hình logistic đánh giá tác động của các nhân tố đến nghèo đói ở Ninh Thuận: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ NÂNG CAO MỨC SỐNG DÂN CƯ Ở NINH THUẬN Năm qua ông/bà có thuê đất của người khác hay không? Có † Không † 7 cells (35,0%) hve expected count less thn 5 The minimum expected count is 3,60 Giả thiết không: H0: Hi biến độc lập nhu C_VIEC LAM_N NG
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status