Hiện trạng và dự báo sự biến động một số nhóm sinh vật của hồ Ba Bể, tỉnh Bắc Cạn - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI học k h o a h ọ c Tự NHIÊN
9|e^e9|es|cs|e9|e4e3|:3|e3|eaỊe3Ịes|c3fe3Ịe
HIỆN TRẠNG VÀ Dự BÁO sự BIÊN ĐỘNG MỘT s ố NHÓM
SINH VẬT CỦA HỔ BA BỂ, t ỉn h b ắ c KẠN
MÃ SỐ: QT - 05 - 39
CHỦ TRÌ ĐỂ TÀI: PGS.TS. Lưu LAN HƯƠNG
ĐAI HỌC QUỐC GIA hả nôi I
TRUNG tam thong tin thơ viền '
Đ T Ị 5 2 Ầ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC T ự NHIÊN
****************
HIỆN TRẠNG VÀ Dự BÁO sự BIÊN ĐỘNG MỘT s ố NHÓM
SINH VẬT CỦA HỔ BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
MÃ SỐ: QT - 05 - 39
CHỦ TRÌ ĐỀ TÀI: PGS.TS. Lưu LAN HƯƠNG
CÁC CÁN BỘ THAM GIA:
- GS. TS. Mai Đình Yên
- NCS. Nguyễn Thuỳ Dương
- NCS. Ngô Quang Dự
- HVCH. Đỗ Kim Anh
- HVCH. Trương Tuấn Anh
HÀ NỘI - 2005
1. BÁO CÁO TÓM TẮT
TÊN ĐỂ TÀI; H iện trạng và d ự báo sự biến động m ột số nhóm sinh vật của hồ
Ba Bể, tình Bắc kạn, mã số: QT -05-39
CHỦ TRÌ ĐỀ TÀI: PGS.TS. Lưu Lan Hương
CÁC CÁN BỘ THAM GIA: - GS. TS. Mai Đình Yên
- NCS. Nguyễn Thuỳ Dương
- NCS. Ngô Quang Dự

mặt Việt Nam. Hồ Ba Bể hiện đang ở mức dinh dưỡng trung bình
(Mesotrophic).
o Khu hệ thực vật nổi (Phytoplankton) và động vật nổi (Zooplankton)
phong phú về thành phần loài, mật độ của chúng lại khá cao. Thành phần
khu hệ động vật đáy và khu hệ cá hồ Ba Bể cũng khá đa dạng, mang sắc
thái riêng của dạng thủy vực nước ngọt miền núi. Sản lượng cá khai thác
ở hồ ngày càng giảm, nhiều loài cá ngon bị mất, cá lớn giảm, cá nhỏ
nhiều và có 6 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam.
o Dự báo sự phát triển của các nhóm sinh vật trong hồ Ba Bể được tiến
hành theo 3 phương án trên kết quả thu được như sau:
■ Phương án 1: hầu hết các nhóm sinh vật đều phát triển quá mạnh
so với thực tế, đặc biệt là Phytoplankton và Zooplankton.
■ Phương án 2: cho kết quả hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát
triển hiện nay của các nhóm sinh vật trong hồ Ba Bể (kể cả
Phytoplankton, Zooplankton, nhóm cá ăn sinh vật đáy, nhóm cá
ăn động vật nổi và nhóm cá ăn thực vật nổi).
■ Phương án 3: Đã mô phỏng thành công một phương án phát triển
bền vững của hồ Ba Bê cho 100 năm sau. Mô hình đã kết hợp
được các mối quan hệ giữa các thành phần vô cơ, hữu cơ trong hệ
sinh thái hồ. Kết quả cho thấy hàm lượng Phytoplankton và
Zooplankton tồn tại trong hồ ở mức độ thấp, hồ giữ được sự trong
sạch lâu dài và mang lại hiệu quả kinh tế cao bằng việc kết hợp
nuôi thả cá với mật độ và khai thác hợp lý.
2. Kết quả phục vụ thực tế:
Xác định được hiện trạng của chất lượng nước, hiện trạng của một số nhóm
sinh vật của hồ Ba Bể và dự báo sự biến động của các nhóm sinh vật này
Thông qua đó đề xuất các biện pháp hợp lý để bảo vệ hồ và phát triển bền
vững.
3. Kết quả đào tạo: 01 Thạc sỹ (Nguyễn Thùy Dương)
4. Kết quả đã công bố: 02 báo cáo hội nghị khoa học

E. MAIN RESƯLTS :
* Results in scientific:
- Collected the documents of conditions on physics, chemistry, hydrologic and
water quality of Ba Be lake in cuưent years
- Investigated, collected and assessed the current State of some groups of
organism in Ba Be lake such as : .
- Simulated to predict the dynamic of some groups of these organism in Ba Be
lake by mathematical model.
• 6 groups of organisms in Ba Be lake were selected to predict include
Phytoplankton, Zooplankton, group of fish which feed on
Phytoplanktons, group of fish which feed on Zooplanktons and group of
fish which feed on Benthods.
MỞ ĐẦU
Hồ là hệ sinh thái tự nhiên điển hình đồng thời là một đơn vị sản xuất cơ bản
của sinh quyển [18]. Bên cạnh các chức năng là cấp nước, giải trí, thủy điện và phòng
hộ thì hồ còn chứa nhiều nguồn tài nguyên phong phú, đó là một “ngân hàng gen” rất
đa dạng cần được bảo vệ.
Đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái hồ là thực vật nổi (sinh vật tự dưỡng),
chúng cung cấp nguồn năng lượng sơ cấp cho tất cả các sinh vật trong hồ, đồng thời
làm sạch môi trường nước. Tiếp theo là sự tồn tại của các nhóm sinh vật dị dưỡng,
nhóm động vật ăn thực vật nổi, nhóm ăn thịt (ăn động vật) và nhóm ăn nhiều loại thức
ãn. Tất cả tạo nên mạng lưới thức ăn và chu trình tuần hoàn vật chất đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của hệ sinh thái hồ.
Hồ Ba Bể là hồ nước ngọt tự nhiên nằm trên vùng núi cao phía Bắc nước ta, một
danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, chứa đựng trong nó là nguồn động thực vật phong phú,
đa dạng và độc đáo. Chính vì thế mà Hội nghị Quốc tế về Hồ nước ngọt tại Mỹ tháng
03/1995 đã đưa hồ Ba Bể là một trong 20 hồ nước ngọt tự nhiên của thế giới cần được
bảo vệ và ngày 01/10/1997 theo Quyết định số 41/TTG của Thủ tướng Chính phủ đã có
Quyết định công nhận Ba Bể là khu rừng cấm.
Cùng với hệ thống sông suối trong vùng, hồ Ba Bể đóng vai trò quan trọng đối

nguồn muối dinh dưỡng, chế độ chiếu sáng, nhiệt độ nước và sự tiêu thụ của động
vật “ăn cỏ”. Ví dụ, ở các hồ vùng ôn đới sự phát triển của tảo silic liên quan chặt chẽ
với hàm lượng sắt trong nước; khi hàm lượng sắt giảm thì số lượng tảo cũng giảm theo.
Sinh vật lượng của các loài tảo trong hệ thống hồ thế giới dao động trong giới
hạn từ 0,0003 đến 300g/m3 và nó phụ thuộc vào dạng sinh học của hồ nhiều hơn là vị
trí địa lý của hồ.
Sự biến động sô' lượng và sinh vật lượng của Phytoplakton trong hồ liên quan
chặt chẽ với quá trình sinh sản, mức độ bị tiêu thụ, tỷ lệ chết tự nhiên và sự di nhập mới
• vào hồ theo nguồn nước cấp.
1.1.2. Động vật nổi - Zooplankton
Zooplankton là nhóm động vật ãn Phytoplankton, cặn vẩn và vi khuẩn đồng thời
tạo nên nguồn thức ăn động vật đầu tiên trong lưới thức ãn của hệ sinh thái hồ.
Zooplankton trong hồ gồm chủ yếu là trùng roi không màu, Infuzoria, Rotatoria,
Cìadocera và Copepoda ; bên cạnh đó còn có hàng loạt các đại diện khác như trứng
và ấu trùng của giáp xác, thân mềm, cá
2
Trong các hồ kể cả ở vùng vĩ độ cao và vĩ độ thấp, hai nhóm Rotatoria và
Cladocera luôn chiếm ưu thế trong thành phần Zooplankton [18].
Zooplankton phân bố chủ yếu trong các tầng nước gần mặt, nơi có nguồn thức
ăn giàu có và chế độ chiếu sáng vừa phải.
Sự phát triển của Zooplankton đạt được cực đại khi mà nguồn thức ăn là
Phytoplankton phát triển với số lượng lớn. Những nhóm Protozoa, Rotatoria phát
triển sớm hơn các nhóm Zooplankton khác (Cìadocera, Copepoda) và cũng sớm chấm
dứt vai trò chủ đạo của mình trong đời sống của động vật nổi, nhường cho sự phát triển
của Zooplankton có kích thước lớn.
1.1.3. Sinh vật đáy - Benthos
Benthos bao gồm Bacteriobenthos (vi sinh vật đáy), Phytobenthos (thực vật đáy)
và Zoobenthos (động vật đáy).
Sự phát triển về thành phần loài và số lượng của Phytobenthos trong hồ liên
quan tới cường độ ánh sáng, ở độ sâu 4-5m thực vật thường mất hẳn trừ những vùng có

năng sử dụng nguồn thức ăn trong hồ có hiệu quả hơn của động vật Nekton.
Sô' lượng các loài cá trong hồ tùy thuộc vào vị trí địa lý, nguồn gốc, lịch sử tạo
thành và độ lớn của hồ.
Trong hồ có thể gặp những loài động vật có xương sống khác như ba ba, rắn, rái
cá và nhiều loài chim nước. Những hồ lớn còn là nơi sinh sống của thú lớn như tulen,
hà mã, cá sấu
Ở hồ Baical đã thống kê được trên 1000 loài động vật và 700 loài thực vật, trong
đó 3/4 động vật giói và gần 1/2 thực vật giới (44%) là những loài đặc hữu. Do đó,
Baical không chỉ là thắng cảnh mà còn là bảo tàng sống của các họ, giống và loài sinh
vật cổ xưa nhất trên hành tinh này [18].
1.2. Các quần xã sinh vật trong một số hồ tự nhiên ở nước ta
1.2.1. Hồ Tây
Hồ Tây thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, đây là một hồ tự nhiên được hình
thành do sự thay đổi dòng của sông Hồng. Hồ chịu ảnh hưởng khí hậu vùng đồng bằng
Bắc Bộ, nhiệt độ nước biến đổi trên dưới 25°c.
Thực vật thủy sinh trong hồ có 18 loài thực vật lớn mọc xung quanh hồ, có lá
nổi hoặc sống trên mặt nước gồm sen, rong mái chèo, trang, bèo tấm và 102 taxon
thuộc 44 chi của 5 ngành tảo: tảo Silic có 19 loài, tảo Lam 13 loài, tảo mắt 8 loài, tảo
Giáp 4 loài, tảo lục 58 loài [18].
Động vật nổi đã gặp 40 loài, trong đó Rotatoria là 29 loài, Cladocera 6 loài,
Copepoda 3 loài, Chonchotraca 1 loài và 1 loài Oxtracoda.
4
Khu hệ động vật đáy trong hồ đã xác định được 3 loài Oligochaeta, 2 loài
Chironomidae, 3 loài Gastropoda, 1 loài Bivalvia và 2 loài giáp xác sống đáy.
Trong hồ có 33 loài cá thuộc 13 họ, trong đó Cyprinidae chiếm ưu thế (22 loài).
Trước đây, hồ Tây là nơi kiếm ăn và trú đông của nhiều loài chim nước như: cò
trắng, cò bợ, sâm cầm, vịt trời, mòng biển Hiện nay, hầu như chúng đã biến mất và
hồ đang được sử dụng để nuôi trồng thủy sản, nghỉ ngơi ngoài trời, du lịch và thể thao
dưới nước.
1.2.2. Hồ Lák

nước tưới, nuôi trồng thủy sản và cải thiện điều kiện môi trường sống trong vùng.
1.3. Vườn Quốc gia Ba Bể
1.3.1. Vị trí địa lý vồ điều kiện tự nhiên
Vườn Quốc gia Ba Bể có diện tích 7.610 ha nằm trong các xã Nam Mẫu, Khang
Ninh, Cao Thượng, Quảng Khê, Cao Trĩ của huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn; phía Bắc giáp
xã Cao Thượng, phía Đông giáp xã Khang Ninh, Cao Trĩ; phía Nam giáp xã Quảng
Khê; phía Tây giáp xã Nam Cường, xã Xuân Lạc (huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn), xã Đà Vị
huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang (hình 1); có toạ độ địa lý (theo UTM 1/50.000) là:
105° 36' 00" E và 22" 33' 00" N. Toàn bộ khu Vườn hầu hết là núi đá vôi hiểm trở, một
phần nhỏ là các thung lũng núi đất xen kẽ và hẹp, có độ cao trung bình so với mặt biển
từ 150-1.098m. Về phía Tây Nam có dãy núi Phija Bjoóc có đỉnh cao từ 1.502-1.527m
[8] [23].
Trung tâm Vườn là hồ Ba Bể (hình 1, ảnh 1 phụ lục 9), mặt hồ rộng gần 500ha,
chiều dài 8km, chiều rộng trung bình là 500m (nơi hẹp nhất là 200m, nơi rộng nhất là
800m) nằm trên độ cao 150m. Đây là hồ tự nhiên ở nội địa lớn nhất nước ta.
Hồ có cấu tạo khá đặc biệt thắt ở giữa và phình ra ở hai đầu, được chia thành 3
phần nối liền nhau với tên gọi hồ I (Pé Lèng), hồ II (Pé Lù) và hồ III (Pé Lầm); quanh
hồ là những vách đá, có chỗ dựng đứng như một bức tường, có chỗ lại vòng vèo uốn
lượn ăn sâu vào các thung lũng làm cho hình dáng mặt hồ rất độc đáo, hoang sơ
Sông Tà Han, sông Chợ Lèn và suối Pó Lù là nguồn cung cấp nước chính cho hồ
Ba Bể. Hệ thống sông suối này hợp thành hệ thủy phía Nam của Vườn Quốc gia. Nước
hồ Ba Bể chảy theo hướng Nam-Bắc đổ ra sông Năng, chảy qua phần phía Bắc của
Vườn Quốc gia, sau đó tiếp tục chảy theo hướng Tây gặp sồng Gâm ở phía Đông của
tỉnh Tuyên Quang.
Về mùa lũ, mực nước hồ có thể dao động lên xuống từ 2,5-3,Om so với mức
bình thường. Hồ có độ sâu trung bình từ 20-25m, nơi sâu nhất là 35m, nơi nông nhất
cũng từ 5-10m. Đáy hồ không bằng phảng mà có nhiều núi ngầm, hang động, đó là nơi
trú ngụ lý tưởng của các loài thủy sinh.
6
Theo Lê Bá Thảo (1977), hồ Ba Bể có nguồn gốc kiến tạo nằm trong vùng Caxtơ

đổ vào đó là một nguồn thức ăn tốt cho cá. Với lượng phù sa tích tụ lâu ngày làm cho
đáy hồ có một lớp bùn nhão và một sô' bãi bằng phảng thuận lợi cho việc dùng lưới vét
đê’ khai thác cá.
7
1.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Vườn Quốc gia Ba Bể (kể cả vùng đệm) nằm trong địa phận của 7 xã Nam Mẫu,
^ ao Tri, Khang Ninh, Quảng Khê, Hoàng Trĩ và Đồng Phúc. Theo sô liệu điểu tra
tháng 11/1999 [5], trong vùng có tổng số dân là 18.463 người, mật độ trung bình là 58
người/km2 tương đương với mật độ trung bình của toàn tỉnh. Số hộ gia đình là 3.179
hộ, trong đó bình quân mỗi hộ có 5,8 người.
Toàn vùng có 5 dân tộc anh em chung sống, trong đó dân tộc Tày chiếm một tỷ
lệ khá lớn (57,7%), dân tộc Dao chiếm 21,2%, dân tộc Mông là 12,6%, người Nùng
chiếm 7,1% và người Kinh chỉ chiếm 1,3%. Tuy có nhiều dân tộc khác nhau nhưng
dân cư ở đây có tính cộng đồng cao. Các dân tộc sông đoàn kết song vẫn gìn giữ được
bản sắc riêng của dân tộc mình.
Các thôn bản có đa phần là người Tày thường sinh sống tập trung tại các vùng
thấp, thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp. Một sô' bản có vị trí thuận lợi, người dân
còn tham gia vào việc kinh doanh dịch vụ du lịch như đưa đón khách chính vì vậy
cuộc sống của dân cư trong những thôn bản này tương đối ổn định. Các thôn bản thuần
nhất dân tộc Mông hay Dao thường sinh sống trên các sườn núi cao hay các thung
lũng, gặp khó khăn cho việc canh tác. Nhiều bản làng vẫn giữ thói quen sông du canh
du cư nên hiện tượng chặt phá rừng làm nương rẫy vẫn xảy ra.
Sống trên địa bàn miền núi, kinh tế của người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp,
đất canh tác lại thiếu do đó tình trạng chung của cư dân ở đây là thu nhập thấp và họ ít
có cơ hội để cải thiện về khả năng kinh tế. Theo tiêu chí phân loại của Chương trình
Quốc gia xóa đói, giảm nghèo đối với vùng rừng núi thì các xã trong vùng đều thuộc
diện xã nghèo, 4 xã (Nam Mẫu, Quảng Khê, Đồng Phúc và Hoàng Trĩ) có số hộ nghèo
chiếm tới trên 70% tổng số hộ; và tổng số hộ nghèo của cả 7 xã trong Vườn chiếm tới
69,13% [5].
• Qua số liệu điều tra cho thấy rằng ở vùng này không có nước sạch (nước cấp đã

Mô hình toán trong sinh thái học có thể được chia thành hai loại đó là các mô
hình giải tích và các mô hình mô phỏng. Trong mô hình giải tích, người ta sử dụng
phương pháp hình thức toán học để mô tả đối tượng sinh thái và sau đấy sử dụng các
kỹ thuật giải tích toán học để rút ra kết luận đặc thù tính chất chung của chúng. Đối với
các mô hình mô phỏng thì máy tính điện tử là công cụ nghiên cứu cơ bản và cần thiết.
Mô phỏng (simulation) có nghĩa là rập khuôn trên mô hình với sự thay đổi các
phần tử và các mối quan hệ của hệ thống mà mô hình đang diễn tả theo một trật tự nhất
định, từ đó mà được nghiệm gần đúng thay cho nghiệm giải tích của mô hình này [32].
9
Thực chất phương pháp mô phỏng là tiến hành giải phương trình bằng cách tích phân
số học.
Tuy nhiên, rất khó phân biệt một cách chính xác giữa hai loại mô hình này vì
trong các mô hình giải tích người ta cũng thường sử dụng phương pháp thực nghiệm
bằng số, trong khi đó với các mô hình mô phỏng lại không thể thiếu được các ước
lượng giải tích sơ bộ [20].
Trên thế giới, từ những năm 1925, Streeter và Phelps đã thiết lập mô hình đánh
giá hàm lượng DO và BOD trong sông Ohio (Mỹ) và mô hình QUAL I được phát triển
đối với dòng chảy trong kênh sông ổn định một chiều. Đến năm 1960, công cụ máy
tính ra đòi cho phép tính toán và xử lý các vấn đề mà trước đây không thể giải quyết
được, hàng loạt các mô hình nền tảng nhằm phát triển mô hình phi tuyến được ra đòi.
Như mô hình của Thomann và Sobal - 1964, Ravell - 1967 đã tập trung đánh giá
những tác động của nguồn điểm tới chất lượng nước; các mô hình đã bước đầu đề cập
đến hiệu quả kinh tế trong việc kiểm soát chất lượng nước [22].
Trong giai đoạn 1970-1977, vai trò khả năng tự làm sạch của nguồn nước (khả
năng chuyển hóa chất bẩn của động thực vật) đã được các nhà mô hình tập trung
nghiên cứu, mở ra một trang mới cho lịch sử phát triển mô hình sinh thái. Trong đó,
vấn đề phú dưỡng được quan tâm nhiều hơn cả và chiếm vị trí quan trọng trong việc
đánh giá và dự báo chất lượng nước, điển hình là các mô hình của Chen (1970), Chen
và Orlob (1975), Ditoro (1971), Canale (1976) Từ năm 1977 trở lại đây, đặc biệt ở
thập niên 80, các nhà mô hình tập trung nghiên cứu các vấn đề chuyển hóa các chất

“Mô hình dự tính xói mòn”, Mai Đình Yên với “Mô hình hệ sinh thái nông nghiệp”,
Vũ Công Hậu với “Mô hình dự tính nãng suất chè”, Trần Vãn Côn với “Mô hình sinh
trưởng gỗ" [15].
Bên cạnh đó, các mô hình đánh giá chất lượng nước đã bắt đầu được quan tâm
vào những năm cuối của thập niên 90 trong thế kỷ trước. Trong đó phải kể đên, Phạm
Toàn Thắng (1990) đã ứng dụng mô hình BOD-DO (QUAL I) để tính phân bô BOD,
• DO trong sông Tô Lịch và sông Cầu; Trần Đức Hạ (1991) đã nghiên cứu mô hình quá
trình tự làm sạch trong các chuỗi hồ đô thị; Đỗ Hoài Dương trong đề tài nghiên cứu
khoa học thuộc chương trình KT-02 đã có nghiên cứu bước đầu về mô hình BOD và
DO trong sông. Năm 1999, TS Nguyễn Hữu Nhân và GS. TS Nguyễn Tất Đắc đã hiệu
chỉnh và ứng dụng các mô hình WATER QUALITY và HYDROGIS đê tính toán dự
báo ô nhiễm nước sông Thị Vải. Đặng Xuân Hiển (2000) đã nghiên cứu phân tích, mô
phỏng sinh thái-chất lượng nước phục vụ việc sử dụng hợp lý nguồn nước sông [12].
11
Và mói đây, năm 2004 Nguyễn Dương Tùng đã sử dụng mô hình DELFT 3D để mô
phỏng chất lượng nước và đánh giá khả năng chịu tải của hồ Tây dưới tác động của quá
trình thủy nhiột động lực và các quá trình lý sinh hóa học liên quan đến trao đổi chất và
biến đổi chất lượng nước hồ Tây [21].
Tuy nhiên, các mô hình về chất lượng nước trong sông và hồ vẫn còn đang mới
mẻ đối với nước ta. Hầu hết các mô hình đều ở dạng đơn giản, chưa bao quát được các
quá trình sinh thái diễn ra trong nguồn nước. Cho đến nay vẫn chưa có chương trình
nào được hoàn thiện và phù hợp để tính toán và dự báo ô nhiễm trong các sông hồ.
12
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. Đối tữợng
Vườn Quốc gia Ba Bể trong đó có hồ Ba Bể là một thắng cảnh nổi tiếng của Việt
Nam. Khu vực hồ Ba Bể là một hệ sinh thái đặc biệt, bao gồm sông, suối, hồ, rừng, núi
đá vôi. Xét về góc độ sinh học, sinh thái học, khu vực này là khu vực có độ đa dạng
sinh học cao do vừa có hệ thống thực vật núi đá vôi điển hình ở vùng đông bắc, vừa có
hệ sinh thái kiểu hồ tự nhiên khá rộng lớn vùng núi. Mặt khác, cũng thấy rằng chính

để biểu diễn hiện trạng và dự báo sự biến động của một sô nhóm sinh vật được nghiên
cứu.
2.2.5. Phần mềm mô hình hóa
Để mô phỏng một quá trình hay hộ thống bất kỳ, chúng ta cần thiết phải có các
chương trình mô hình hóa. Các chương trình này thường được xây dựng dưới dạng các
phần mềm.
Có nhiều phần mềm mô phỏng đã được thiết lập, chỉ tính riêng phần mềm
chuyên dụng cho hệ sinh thái đại dương, sông, hồ cũng có thể kể đến BLTM,
DOTABLES, HSPEXP, SWPROD; DYRESM-WQ (phần mềm về lượng chất dinh
dưỡng xâm nhập vào hồ) [36]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phần mềm
STELLA làm công cụ mô phỏng.
STELLA 3.0 là công trình hợp tác của một nhóm 7 nhà khoa học người Hà Lan:
John Gass, Jeffrey Pease, Marcia Newcomb, Karim Chichakly, Chuck Officer, Kathy
Richmond, Barry Richmond. Đây là một phần mềm mô hình hóa được thiết lập với các
đôi tượng và quan hệ được biểu diễn bằng hình ảnh nên rất dễ hiểu. Đồng thời, với
cách thể hiện súc tích STELLA cũng rất dễ sử dụng.
Mặc dù chương trình hiển thị có vẻ khá đơn giản, thực chất STELLA có cấu trúc
khá phức tạp đảm bảo cho phạm vi ứng dụng và thực thi cao. Nó có thê đáp ứng từ
những yêu cầu mô phỏng đơn giản nhất (một phản ứng hóa học) đến những đòi hỏi
9 khắt khe của một chuyên gia mô hình hóa. STELLA cũng cho phép mở rộng mô hình
khi cần thiết, đây là một tính năng rất quan trọng trong việc mô phòng. Với những ưu
điểm đó, STELLA đã được ứng dụng trong nhiều nghiên cứu khoa học.
2.2.6. Mô hình hệ sinh thái hồ
Mô hình hệ sinh thái hồ thể hiện cái nhìn khái quát về hệ sinh thái rất đặc trưng
này, qua đó, cho phép đánh giá cũng như dự báo về biên động chất lượng nước và tìm
phương pháp quản lý tối ưu. Đâv cũng là mục đích cơ bản của việc mô hình hóa.
14
Đê tai sư dụng mô hìoh hệ sinh thái của Yu. M. Svirezhev, V. p. Krysanova và
A* A. Voinov [35]. Mô hình hệ sinh thái đã đề cập đến các thành phần chính như trong
hình 2.

(Nguồn: Hồ Tlianh Hái và cs., 2003) [10]
Trong mùa mưa, nhiệt độ nước tầng mặt dao động từ 30,2°c đến 34,4 ’C; nhiệt
độ tầng đáy thấp, khoảng 18-20l’C, không cao hơn nhiều so với nhiệt độ nước tầng đáy
trong mùa khô (17°C). Từ đó cho thấy nhiệt độ nước tầng đáy của hồ Ba Bể là tương
đối ổn định.
3.1.2. Độ trong
Nước hồ Ba Bê rất trong, độ trong trung bình là 109cm. Vào mùa lũ, phù sa của
sông Chợ Lèn ảnh hưởng khá sâu sắc tới độ trong của hồ, bên cạnh đó còn có sự góp
phần của suối Pó Lù. Do ảnh hưởng này nên độ trong của hồ I thấp hơn so với 2 phần
còn lại của hồ và chỉ đạt khoảng 84cm, độ trong trung bình của hồ I và hồ II là 123 cm.
I
16
3.1.3. Độ pH
Nước hồ có pH trung tính, giá trị trung bình là 7,26. Cũng như độ trong, pH
nươc hô bị anh hưởng của sông Chợ Lèn và suối Bó Lù, song không sâu sắc. Hai nguồn
nước này có độ pH thấp hơn (pH = 6,2 và 6,8) đã làm pH ở phần đầu của hồ I hơi giảm
đi (pH = 6,9). pH thay đổi không đáng kể theo độ sâu của hồ, chênh lệch giữa tầng mặt
và tầng đáy chỉ là 0,13.
3.1.4. Ôxy hòa tan (DO)
Oxy hòa tan (DO) là chỉ tiêu cơ bản, giữ vai trò quan trọng trong hệ sinh thái
hồ. Nồng độ DO phụ thuộc vào rất nhiều yếu tô như quá trình khuếch tán ôxy qua bề
mặt, quá trình hô hấp, quang hợp của thực vật; quá trình phân hủy chất hữu cơ của vi
sinh vật.
Hàm lượng ôxy hòa tan tại tầng mặt trong nước hồ Ba Bể tương đối cao. Giá trị
trung bình là 8,6 mg/1 đảm bảo tiêu chuẩn cho phép đối với chất lượng nguồn nước mặt
loại A (TCVN 5942-1995) [3]. Cũng giống như nhiệt độ nước, ôxy hòa tan trong nước
hồ Ba Bể mang tính phân tầng rất rõ rệt, hàm lượng ôxy hòa tan cao ở tầng mạt và thấp
dần ở tầng nước sâu hơn (hình 4)
Trên tầng mặt, lượng ôxy hòa tan trung bình vào mùa khô là 9,33 mg/1, trung
bình tầng đáy là 2,13 mg/1 và trung bình tầng giữa là 4,76 mg/1. Trong khi đó vào mùa

3.1.6. Một sô'yếu tô'khác
Do đá vôi vùng Ba Bê bị biến chất thành đá hoa (là loại đá khó bị hòa tan) nên
hàm lượng canxi và magiê trong nước hồ thấp (Ca2+ = 32,81 mg/1, Mg2+ = 3,32 mg/1).
Nước hồ thuộc loại nước mềm, độ cứng toàn phần xấp xỉ 4,6 độ Đức [4].
Hàm lượng sắt trung bình trong nước hồ đạt 0,31 mg/1. sắt tập trung nhiều nhất
ở vùng đáy sâu thuộc hồ II và III (trung bình là 0,47 mg/1). Hàm lượng ion Fe2+ và Fe3+
là tương đương nhau ở tầng nước mặt, nhưng tại vùng đáy sâu hàm lượng Fe2+ lớn hơn
nhiều Fe3+; hiện tượng này có liên quan tới sự giải phóng sắt từ trầm tích đáy. Nguyễn
Văn Hảo (1975) đã sử dụng hiện tượng này để giải thích sự ô nhiễm tự nhiên vào mùa
đông ở hồ Ba Bể (khi nước hồ đổi màu từ trong xanh sang đục đỏ, có khi nổi thành lớp
váng trên mặt làm cho cá ngột ngạt và chết).
3.2. Đa dạng sinh học trong vùng hồ Ba Bể
3.2.1. Đa dạng vé thành phần loài
* Khu hê thưc vât
Theo Hill [25] và các tác giả khác, thì con số thống kê có thế lên tới 603 loài
thực vật bậc cao có mạch thuộc 137 họ. Trong đó có 10 loài có trong sách đỏ của Việt
Nam [1]. Cho đến nay, theo báo cáo điều tra tại Hội nghị Khoa học tại Vườn Quốc gia
18
Ba Bể tháng 8/2002, đã bước đầu thống kê được 620 loài, thuộc 300 chi và 138 họ
(bang 1). Các loài chiếm ưu thê ở vùng núi đá vôi chủ yếu là Nghiến Burretiodendron
hsienmu, Mạy Tèo Streblus tonkinensis. Loài cây đặc hữu ở Vườn là Trúc dây
Sinocalamus mucclure hay Ampelocalamus sp., thường mọc trên các sườn đồi dốc
chạy theo bờ hồ.
Bảng 1. Thành phần loài thực vật Vườn quốc gia Ba Bể
Nhóm phàn loại
Họ
Chi
Loài
1. Ngành Thông đất
2

đến 22 loài (chiếm 41,5%)
I
19


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status