Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành - Pdf 26

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2004, Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên ra đời đã đánh dấu một bước
chuyển lớn trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, khẳng định sự nỗ
lực của Việt Nam trong việc đổi mới, hội nhập. Với hệ thống những nguyên tắc
cơ bản trong hoạt động tố tụng; trình tự, thủ tục khởi kiện, xét xử; sự tham gia tố
tụng dân sự của các chủ thể…được BLTTDS quy định đều nhằm mục đích giải
quyết các vụ việc dân sự được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Nhưng
hoạt động xét xử là hoạt động của thẩm phán, là hoạt động của những con người
cụ thể nên không tránh khỏi sai sót khiến những phán quyết của Toà án không
đúng với sự thật khách quan hoặc trái pháp luật. Những sai sót này có thể xuất
phát từ yếu tố chủ quan hoặc yếu tố khách quan nên dẫn đến việc có những bản
án, quyết định dân sự đã trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí
qua nhiều vòng xét xử lặp đi, lặp lại mà vẫn không đúng pháp luật. Do đó, để
khắc phục và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó cần có một thủ tục xét lại bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
Hiện nay, tình hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực
pháp luật của người dân đang tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu nại của Toà án
các cấp cũng gặp nhiều vấn đề phức tạp, quá tải; nhiều vụ án kéo dài nên chưa
đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và gây dư luận bức xúc.
Hơn nữa, sau hơn 5 năm thi hành BLTTDS đã cho thấy một số quy định
về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế như: vấn
đề khiếu nại, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực mà có sai sót; thẩm
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm…Chính những quy định chưa rõ ràng và đầy đủ trong BLTTDS đã gây ra
những vướng mắc và giảm hiệu quả công tác xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của ngành Toà án.
1
Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu của Cải cách Tư pháp, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược Cải cách Tư
pháp đến năm 2020” nhằm “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo

kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2003. Đây là đề tài nghiên cứu
chuyên sâu về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự trong bối cảnh chưa có
BLTTDS.
- Mố số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, của tiến sĩ Lê Thu Hà, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia năm 2003. Tác giả đã nghiên cứu tổng thể các cấp
xét xử của Toà án các cấp bao gồm: sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu
của đề tài rộng nên tác giả chưa đưa ra các giải pháp toàn diện đối với thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm.
- Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Viết Nam, của Đào Xuân Tiến, Luận án tiến sĩ
Luật học năm 2009. Tác giả đã đưa ra khái niệm về thủ tục xét lại bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự, phân tích
pháp luật tố tụng kinh tế, dân sự và thực trạng áp dụng thủ tục xét lại bản án,
quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời,
luận án cũng đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án,
quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án như: tổ chức bộ phận giúp việc Hội
đồng thẩm phán TANDTC; thống nhất thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái
thẩm…Tuy nhiên, các kiến nghị mà tác giả đưa ra chưa mang tính giải pháp tổng
thể mà chủ yếu là một số kiến nghị mang tính chất hình thức, thủ tục.
- Giám đốc thẩm dân sự- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Mai Ngọc
Dương, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2010. Luận án giải quyết một số vấn đề lý
luận về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự như: bản chất, khái niệm, đặc điểm
pháp lý, ý nghĩa của giám đốc thẩm và nêu lên thực trạng công tác giám đốc
3
thẩm của ngành Toà án. Từ đó, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật tố tụng dân sự về phần quy định giám đốc thẩm. Tuy nhiên, luận án
chưa đưa ra được sự so sánh giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp
chí của các tác giả như: Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Quang Tiến, Trần Anh

5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đã tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất của thủ tục xét lại bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, trong đó có các vấn đề như: khái
niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa pháp lý. Trong luận văn, chúng tôi đã đưa ra
khái niệm mới về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật, cũng như khái niệm về giám đốc thẩm dân sự, tái thẩm dân sự. Luận văn
cũng giúp người đọc hình dung được thực tiễn công tác giám đốc thẩm, tái thẩm
của ngành Toà án trong những năm qua, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân
và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giám đốc
thẩm, tái thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH DÂN SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực pháp luật
Theo thuyết tam quyền phân lập của Montesquiơ thì trong Nhà nước có ba
loại quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; ba quyền
này được trao cho ba hệ thống cơ quan tương ứng là: cơ quan lập pháp, cơ quan
hành pháp và cơ quan tư pháp. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều quốc gia tổ
chức bộ máy nhà nước theo mô hình này. Trong đó quyền tư pháp được trao cho
hệ thống toà án.
Có thể nói, Toà án có vị trí và vai trò đặc biệt, là biểu hiện tập trung nhất
của quyền tư pháp vì Toà án thực hiện chức năng xét xử, nơi mà kết quả của hoạt
động điều tra, công tố, bào chữa được kiểm tra, xem xét một cách công khai
thông qua thủ tục tố tụng luật định để đưa ra những phán quyết có tính chất

mục đích đảm bảo cho việc xét xử được đúng pháp luật, khắc phục được những
sai lầm trong việc xét xử.
Mặc dù đã có cơ chế để đảm bảo tình hợp pháp của các bản án hoặc quyết
định trước khi có hiệu lực pháp luật thông qua thủ tục phúc thẩm nhưng những
bản án hoặc quyết định này vẫn có thể không hợp pháp. Thực tiễn xét xử của
ngành Toà án đã chứng minh một thực tế rằng: không phải vụ án nào Toà án
cũng xử đúng, công bằng; kể cả những vụ án đã qua hai cấp xét xử tức là xét xử
cả sơ thẩm, phúc thẩm và đã có hiệu lực nhưng vẫn có những sai sót. Nguyên
nhân có thể do lý do khách quan như cả cơ quan xét xử và đương sự đều không
thể biết được những tình tiết phát sinh làm thay đổi nội dung vụ án, hoặc vì
những lý do chủ quan, sự cố tình làm trái quy định pháp luật của cơ quan xét xử,
những tiêu cực khi xét xử hoặc do trình độ thẩm phán còn hạn chế…Nếu một
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nói chung hay bản án,
7
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nói riêng khi có những sai lầm mà
vẫn được thi hành thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Do đó, cần có một cơ chế để kiểm tra, giám đốc việc xét xử của
Toà án để nhằm phát hiện những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
song có sai lầm.
Hiện nay, pháp luật tố tụng của các quốc gia trên thế giới quy định cũng
rất khác nhau về vấn đề xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật. Có những quốc gia không đặt vấn đề xem xét lại các bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật như Philippines; có một số nước trước đây có quy định
nhưng hiện tại đã bỏ như Tây úc; một số nước vẫn duy trì thủ tục này trong các
luật tố tụng như: các nước theo hệ thống pháp luật Civil law, Trung Quốc, Việt
Nam. Việc có quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định có hiệu lực hay không
cũng ảnh hưởng trực tiếp tới mô hình tổ chức hệ thống Toà án của các nước.
Nhiều quốc gia đặt thêm một Toà án ở trên Toà thượng thẩm có nhiệm vụ xem
xét những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới đã xử
đúng hay sai.

trong phạm vi yêu cầu đó trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Còn đối
tượng xét xử phúc thẩm là các vụ án dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Còn việc xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật không hướng tới đối tượng xét xử là vụ án dân sự
mà chỉ xem xét các bản án, quyết định của Toà án. Đây là một đặc điểm quan
trọng thể hiện thủ tục này không phải là cấp xét xử thứ ba mà là một thủ tục
đặc biệt.
Bên cạnh đó, đối tượng của thủ tục này là bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy định của pháp luật, các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật phải được thi hành trên thực tế. Tuy nhiên, có nhiều trường
hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bản án, quyết định đó có
những vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn tới không đảm bảo được quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, không bảo đảm công bằng xã hội. Vì vậy, thủ tục
9
này đặt ra để giúp Toà án sửa chữa chính những sai lầm đó. Đây là một thủ tục
đặc biệt trong tố tụng tư pháp.
- Thứ hai, thủ tục đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật không phải là một cấp xét xử.
Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước
về việc xét xử các vụ án nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan trong phán
quyết của Toà án, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Các quốc gia khác
nhau thì quy định khác nhau, có thể quy định nguyên tắc hai cấp xét xử hoặc ba
cấp xét xử. Cấp xét xử không chỉ quy định đơn thuần về thủ tục tố tụng mà
còn liên quan đến cách thức tổ chức tố tụng và tổ chức hệ thống Toà án để
thực hiện việc xét xử lại vụ án.
Ở nước ta, ngay từ Luật tổ chức TAND đầu tiên năm 1960 đã quy định
Toà án thực hành chế độ hai cấp xét xử đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.
Song song với việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử, luật cũng quy định thẩm
quyền của Toà án các cấp trong việc xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Cấp xét xử sơ
thẩm và phúc thẩm phải đảm bảo các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định: đảm

tục này là một hình thức giám sát và đôn đốc của Toà án cấp trên với Toà án cấp
dưới, có nước dùng thuật ngữ kháng án đặc biệt do hình thức kháng án để làm
phát sinh thủ tục này không phải là hình thức kháng án thông thường [19].
Ở Việt Nam, thủ tục xét lại bản án quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật bao gồm hai thủ tục: thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
1.1.2. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự
Có nhiều quan niệm “Giám đốc thẩm”: dưới góc độ ngôn ngữ học, theo
Từ điển Pháp- Việt “cassation” là danh từ có nghĩa là “sự phá án” [47]; theo từ
điển Anh- Việt “cassation” cũng là danh từ có nghĩa là “sự huỷ bỏ” [48]; theo Từ
điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì không có giải nghĩa về cụm từ
“giám đốc thẩm” mà phải ghép “giám đốc” là “đôn đốc và giám sát” với
“thẩm” là “xét kỹ” [46].
11
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, các tác giả đã đưa ra những khái niệm
khác nhau về giám đốc thẩm:
Quan điểm thứ nhất: “Giám đốc thẩm dân sự là một giai đoạn tố tụng có
mục đích kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật” [49, tr.288]. Quan điểm này nhìn nhận giám đốc
thẩm là một giai đoạn tố tụng, cho rằng giám đốc thẩm là thủ tục để kiểm tra tính
hợp hiến, hợp pháp của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án. Quan điểm này không đề cập đến việc kháng nghị giám đốc thẩm như là một
căn cứ của giám đốc thẩm.
Quan điểm thứ hai: “Thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc biệt của
tố tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có vi phạm ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết
vụ án” [8]. Quan điểm này nhìn nhận giám đốc thẩm như là một trình tự của tố
tụng tư pháp, cho rằng căn cứ của giám đốc thẩm là kháng nghị. Tuy nhiên điều
này cũng không hoàn toàn đúng. Vì kháng nghị giám đốc thẩm chỉ là sự biểu
hiện về mặt hình thức, thủ tục nên có có thể có quy định khác nhau ở các nước.
Thực tế rất ít nước quy định kháng nghị của người có thẩm quyền là căn cứ của

Theo chúng tôi, để nhận diện được đầy đủ bản chất của giám đốc thẩm
dân sự thì cần làm sáng tỏ các vấn đề sau (đây cũng là những vấn đề tồn tại trong
thủ tục tái thẩm):
- Đối tượng của giám đốc thẩm
Đối tượng giám đốc thẩm dân sự là bản án hoặc quyết định của Toà án mà
không phải là các vụ án. Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm không xem xét,
đánh giá, kết luận những vấn đề, nội dung vụ án vì đó thuộc thẩm quyền của các
cấp xét xử sở thẩm và phúc thẩm. Đặc điểm này chỉ ra giám đốc thẩm không
phải là cấp xét xử thứ ba.
Những bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật thì không
bao giờ là đối tượng của giám đốc thẩm. Đây là điểm khác biệt giữa thủ tục giám
đốc thẩm với thủ tục phúc thẩm. Đối tượng của phúc thẩm là những bản án,
13
quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật. Đối tượng giám đốc thẩm là các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà theo đánh giá của người có thẩm
quyền kháng nghị phải có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Mục đích của giám đốc thẩm
Mục đích của giám đốc thẩm là nhằm đảm bảo hoạt động xét xử của Toà
án đúng pháp luật, đảm bảo tính hợp pháp của các bản án, quyết định của Toà
án, đảm bảo pháp chế trong hoạt động xét xử. Giám đốc thẩm là một hình thức
kiểm tra, giám đốc xét xử đặc biệt của Toà án. Về thực chất, Toà án có thẩm
quyền giám đốc thẩm không xử lại vụ việc mà chỉ đối chiếu bản án, quyết định
với quy định của pháp luật xem có phù hợp hay không.
- Cơ sở làm phát sinh giám đốc thẩm
Cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục giám đốc thẩm là kháng nghị giám
đốc thẩm. Theo Luật TTDS Việt Nam thì cơ sở làm phát sinh thủ tục giám đốc
thẩm chỉ có kháng nghị của những người có thẩm quyền, mà không có kháng cáo
của đương sự. Do tính chất đặc biệt của giám đốc thẩm nên kháng nghị giám đốc
thẩm cũng khác với các loại kháng nghị khác là: kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm hay kháng nghị tái thẩm.

tái thẩm và nội hàm của khái niệm“thủ tục tái thẩm” trong TTDS
Tác giả Đinh Văn Quế thì: “Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định
mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó” [9, tr 102]. Với
khái niệm này thì đã thấy được căn cứ kháng nghị tái thẩm là những tình tiết mới
phát hiện nhưng không đưa ra được quan điểm của tác giả về việc xác định thủ
tục tái thẩm là một giai đoạn tố tụng hay một thủ tục tố tụng đặc biệt.
Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật
Hà Nội đã đưa ra khái niệm: “Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng nghị do mới phát hiện được tình tiết
15
quan trọng của vụ án mà Tòa án và các đương sự đã không biết được khi Toà án
giải quyết vụ án” [30, tr 335].
Với khái niệm này, thì đối tượng của việc xét lại theo thủ tục tái thẩm là
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện được những tình
tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ án nhưng lúc ra bản án,
quyết định các đương sự và Toà án đã không thể biết. Do mới phát hiện được
những tình tiết của vụ án mà trước đó các đương sự và Toà án đã không biết
được nên làm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án trở nên
không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, không đúng đắn.
Điều 304 BLTTDS quy định tính chất của tái thẩm, đồng thời cũng chính
là khái niệm pháp lý về tái thẩm: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các
đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó”.
Để làm rõ bản chất của thủ tục tái thẩm, từ đó hình thành khái niệm tái
thẩm dưới góc độ tiếp cận là thủ tục TTDS thì cần xác định những dấu hiệu đặc
trưng sau:
- Căn cứ kháng nghị tái thẩm

luật trong việc xét xử của Toà án các cấp, đồng thời hướng dẫn cách khắc phục
những sai sót đó. Những sai lầm này được nêu trong các hội nghị tổng kết ngành,
hội thảo về xét xử giúp cán bộ làm công tác xét xử nói chung có được nhận thức
đúng đắn và tôn trọng pháp luật hơn. Thông qua giám đốc thẩm, tái thẩm,
TANDTC sẽ hướng dẫn việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất,
tránh việc nhận thức pháp luật sai lầm và áp dụng pháp luật một cách tuỳ tiện.
Không chỉ có ý nghĩa giáo dục ý thức pháp luật đối với cán bộ làm công tác xét
xử mà nó còn góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho những người có liên quan
đến vụ việc và người dân nói chung.
17
Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân
được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung Nhà nước pháp quyền, thể hiện bản
chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Toà án trong hoạt động của mình phải đảm bảo
việc xét xử được đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Tuy Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm không trực tiếp xét xử vụ án, không
trực tiếp khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm nhưng bằng
việc huỷ những bản án, quyết định sai, tạo cơ sở pháp lý để vụ án được phục hồi
và xét xử lại nên đã góp phần khắc phục những vi phạm quyền lợi hợp pháp của
nhân dân.
Giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiệm vụ xét lại những bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật, vô hiệu các bản án, quyết định sai trái, đảm bảo việc xét
xử hợp pháp và hợp hiến. Với mục đích này, giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần
đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN, đảm bảo tính thống nhất, ổn
định chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật.
- Về mặt xã hội: Giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần đảm bảo công bằng xã
hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Toà án, góp phần
đảm bảo uy tín của cơ quan tư pháp.
Việc đảm bảo pháp luật được giải thích và áp dụng thống nhất là điều kiện
quan trọng để hành vi của công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật
thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989
Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, ngay sau khi giành được chính
quyền, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24/01/1946 về tổ chức Toà án và ngạch thẩm phán đã ghi nhận nguyên tắc
“Toà án thực hiện hai cấp xét xử”. Ngày 09/01/1946, Quốc hội ban hành Hiến
pháp đầu tiên tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và quản lý bộ máy nhà nước,
19
trong đó có ngành Toà án. Tuy nhiên, trong giai đoạn này chưa có văn bản pháp
luật nào quy định về thẩm quyền của Toà án trong việc xét lại bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Ngày 22/5/1950, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 85/SL mới có quy định
về thủ tục tiêu án. Tại Điều 17 Sắc lệnh quy định: “Toà án chỉ thủ tục một phần
hoặc toàn bộ thủ tục nếu xét thấy một hay nhiều hình thức ghi trong Luật tố tụng
hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của đương sự.” Ngày
12/02/1958, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư 321/VHH-CT yêu cầu các Toà án phải
nghiên cứu các đơn thư khiếu nại về các bản án đã xử chung thẩm. Ngày
13/01/1959, Bộ Tư pháp đã phối hợp với TANDTC ra Thông tư số 002/TT
quy định về thẩm quyền và thủ tục xét lại những vụ án hình sự đã có hiệu
lực pháp luật.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1959. Nhưng trong
Hiến pháp năm 1959 cũng chỉ mới quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm của
Toà án mà chưa quy định về thẩm quyền và thủ tục tái thẩm: “Toà án nhân dân
tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Toà án
nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân địa phương, Toà án
quận sự và Toà án đặc biệt” [22]. Luật tổ chức TAND năm 1960 đã quy định khá
đầy đủ các nguyên tắc trong việc xét xử, phân định thẩm quyền của Toà án các
cấp. Bên cạnh việc xét xử hai cấp như trước đây, Toà án đã áp dụng một thủ tục
xét xử mới đặc biệt, đó là thủ tục giám đốc thẩm. Điều 10 Luật tổ chức TAND
năm 1960 quy định: “Đối với các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã

những quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao”[26].
Như vậy, thủ tục tái thẩm lần đầu tiện được quy định trong Luật tổ chức
TAND năm 1981. Cũng theo quy định của luật thì Uỷ ban thẩm phán TANDTC
sẽ có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của các toà thuộc TANDTC; các toà chuyên trách sẽ có
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
21
luật của các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương
đương; TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quyền giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các
TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo đó, thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm cũng được quy
định khá rõ ràng: Chánh án TANDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp.
Thông tư số 01/TATC ngày 01/02/1982 của TANDTC về thủ tục giám đốc thẩm
dân sự ở TANDTC đã quy định rõ các trường hợp cần được kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm như: việc điều tra, thẩm vấn không đầy đủ, không khách
quan, chưa làm sáng tỏ được những tình tiết có ý nghĩa của vụ kiện; vi phạm
pháp luật tố tụng; kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết thực
tế của vụ kiện mà Toà án xác định…Như vậy, có thể thấy các quy định về thủ
tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong giai đoạn này đã có
sự phát triển hơn nhưng mới chỉ dừng lại ở các quy định trọng các thông tư liên
tịch mang tính hướng dẫn.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2004
Đây là giai đoạn Nhà nước ta bước sang thời kỳ đổi mới, xoá bỏ nền kinh
tế bao cấp, xây dựng kinh tế phát triển theo hướng cơ chế thị trường định hướng
XHCN. Trên tinh thần Đại hội Đảng lần VI (ngày 12/01/1986) là tăng cường
quản lý bằng pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng những
nhu cầu trước mắt của ngành Toà án, phù hợp với những khách quan của xã hội

điều luật thể hiện rõ nét khác biệt của thủ tục tái thẩm so với giám đốc thẩm như:
tính chất của tái thẩm, thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, thẩm quyền của
Hội đồng tái thẩm.
Như vậy, với việc bổ sung, cụ thể hoá các điều khoản quy định về thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm đã làm cho thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã
có hiệu lực pháp luật được chặt chẽ hơn, bao quát và mang tính hiệu quả hơn.
23
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
Theo quy định của BLTTDS hiện nay thì thủ tục xét lại bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật được quy định thành hai thủ tục riêng biệt là: thủ
tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Việc quy định riêng như vậy trong luật cũng đã
phản ánh được bên cạnh những điểm giống nhau giữa hai thủ tục này thì còn có
những điểm khác biệt ngay chính trong các quy định của pháp luật TTDS. Do
đó, trong chương này thông qua việc phân tích, đánh giá những quy định của
pháp luật TTDS về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ giúp chúng ta thấy được
những điểm giống và khác nhau giữa hai thủ tục này.
2.1. Giống nhau
2.1.1. Đối tượng kháng nghị
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại Điều 188, Điều 279, Điều 30 BLTTDS thì các bản án,
quyết định là đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm gồm:
- Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
- Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
- Quyết định của Toà án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Riêng đối với Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ
có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mà không thể bị kháng nghị

Hiện nay, có ý kiến cho rằng: không nên quy định Chánh án TAND cấp
tỉnh và Chánh án TANDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vì
TANDTC và TAND cấp tỉnh không những vừa có thẩm quyền xét lại bản án,
quyết định của Toà án cấp dưới sau khi có kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm mà còn là cơ quan quản lý Toà án cấp dưới về mặt tổ chức, nếu quy định
25

Trích đoạn Thời hạn kháng nghị Quyền hạn của hội đồng xét xử Công tác giải quyết đơn khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm Thực tiễn công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm Thực tiễn hoạt động xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status