Báo cáo " Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài " - Pdf 12



§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
12 T¹p chÝ luËt häc

TS. N«ng Quèc B×nh *
heo quy định của pháp luật Việt
Nam, những vấn đề pháp lý liên quan
tới thủ tục công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam quyết định dân sự của toà án
nước ngoài, quyết định của trọng tài nước
được quy định tại Phần thứ sáu của Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Trên cơ
sở các quy định của Phần thứ sáu
BLTTDS, bài viết này xin đề cập một số
quy định có tính nguyên tắc trong việc
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài tuyên.
1. Toà án của Việt Nam chỉ công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài phù hợp với quy định của điều ước
mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập
Tôn trọng các cam kết quốc tế là một
trong những nguyên tắc cơ bản của luật

Việt Nam nếu bản án hoặc quyết định
dân sự đó được tuyên bởi toà án của
nước ký kết với Việt Nam điều ước quốc
tế có quy định việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của nhau
hoặc cùng Việt Nam là thành viên của
T

* Giảng viên chính Khoa luật quốc tế
Trường Đại học Luật Hà Nội §Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 13

điều ước quốc tế về vấn đề công nhận và
cho thi hành các bản án, quyết định dân
sự (Điều 343 BLTTDS).
Trên thực tế, Việt Nam đã ký kết
nhiều điều ước quốc tế tay đôi về tương
trợ tư pháp và pháp lý
(2)
(HĐTTTP).
Trong các HĐTTTP này Việt Nam đã
thoả thuận với các nước ký kết đối với
việc công nhận và cho thi hành bản án và
quyết định dân sự của nhau trong quan hệ
quốc tế. Trên cơ sở quy định của
HĐTTTP, nội dung quy định về vấn đề
này được thực hiện theo nguyên tắc

định tại khoản 2 Điều 343 BLTTDS thì
có thể nói toà án của Việt Nam xem xét
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của trọng tài nước ngoài
trong hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất, quyết định của
trọng tài được tuyên tại nước là thành
viên của điều ước quốc tế mà Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp
này dấu hiệu nơi trọng tài tuyên được coi
là dấu hiệu để xác định thẩm quyền của
toà án Việt Nam trong việc xem xét,
công nhận quyết định của trọng tài nước
ngoài. Trên thực tế, khi thoả thuận về
trọng tài các bên có thể chọn ra loại
trọng tài (trọng tài thiết chế hoặc trọng
tài ad-hoc) đồng thời có thể thoả thuận
cả nơi trọng tài sẽ tiến hành xét xử, đặc
biệt là đối với trường hợp chọn trọng tài
ad-hoc. Vì vậy, trong trường hợp này,
nếu nơi tiến hành xét xử là nước thuộc
thành viên của điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì phán
quyết của trọng tài đó có thể được toà án
Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam.
Trường hợp thứ hai, quyết định trọng
tài được tuyên bởi trọng tài của nước mà
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều


quốc tế thì việc bảo lưu này cần được
nghiên cứu xem xét thêm.
2. Toà án Việt Nam chỉ công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của toà án nước ngoài,
quyết định của trọng tài nước ngoài
theo quy định của pháp luật Việt Nam
Nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên
đương sự, đặc biệt là của nguyên đơn
trong các vụ kiện có yếu tố nước ngoài,
trong một số trường hợp pháp luật Việt
Nam quy định việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam các bản án, quyết
định dân sự của toà án nước ngoài, quyết
định của trọng tài nước ngoài tuyên. Về
vấn đề này, BLTTDS quy định toà án
xem xét công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự khi
bản án và quyết định dân sự đó nếu được
pháp luật Việt Nam công nhận và cho thi
hành (Điều 343 BLTTDS).
Trong BLTTDS không quy định cụ
thể loại bản án, quyết định dân sự nào của
toà án nước ngoài tuyên hoặc quyết định
của trọng tài nước ngoài tuyên sẽ được
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong BLTTDS lại quy định
rất cụ thể các loại bản án, quyết định dân
sự của toà án nước ngoài cũng như quyết
định của trọng tài nước ngoài sẽ không

toà án Việt Nam đã thụ lý và đang giải
quyết vụ án đó;
- Bản án, quyết định dân sự đã hết hiệu
lực thi hành theo pháp luật của nước có
toà án đã ra bản án, quyết định đó hoặc
theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Việc công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đối với việc không xem xét
công nhận và thi hành các quyết định của
trọng tài nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 370
BLTTDS, toà án của Việt Nam sẽ không
xem xét công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam các quyết định của trọng tài
nước ngoài sau đây:
- Quyết định trọng tài dựa trên ký kết
thoả thuận trọng tài của các bên không
đủ năng lực hành vi ký kết theo quy định
của pháp luật áp dụng cho mỗi bên.
(4)

Quy định này được hiểu là các bên
ký kết phải đủ năng lực hành vi ký kết.
Như vậy, nếu một trong các bên không
đủ năng lực hành vi ký kết thỏa thuận
trọng tài thì phán quyết của trọng tài dựa
trên cơ sở thỏa thuận đó cũng sẽ không

(7)
hoặc thành
phần, thủ tục trọng tài nước ngoài đã
không phù hợp với thỏa thuận trọng tài.
- Quyết định của trọng tài nằm ngoài
yêu cầu giải quyết của các bên hoặc vượt
quá yêu cầu của các bên trong thoả thuận
trọng tài.
(8)

- Quyết định của trọng tài nước ngoài §Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
16 T¹p chÝ luËt häc
chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên hoặc bị cơ quan có thẩm quyền huỷ
bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
(9)

- Quyết định của trọng tài nước ngoài
không phù hợp với quy định của pháp
luật Việt Nam hoặc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của trọng
tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam.
(10)

3. Toà án Việt Nam có thể công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản

ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài được quy định tại khoản 3 Điều
343 BLTTDS. Về mặt lý luận cũng như
thực tế, nguyên tắc có đi có lại được áp
dụng mà không đòi hỏi phải Việt Nam và
các nước hữu quan phải là thành viên
của điều ước quốc tế về vấn đề này. Trên
cơ sở lý luận về nguyên tắc có đi có lại
trong quan hệ quốc tế, về vấn đề này có
thể được hiểu là toà án của Việt Nam có
thể công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của toà án hoặc quyết
định của trọng tài nước ngoài của một
nước khi toà án nước này đã công nhận
và cho thi hành đối với bản án, quyết
định dân sự của toà án Việt Nam hoặc
quyết định của trọng tài Việt Nam.
4. Bản án, quyết định dân sự của toà
án nước ngoài hoặc quyết định của
trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành
tại Việt Nam sau khi đã được toà án của
Việt Nam công nhận và cho thi hành
Thi hành quyết định của toà án hoặc
phán quyết của trọng tài có một ý nghĩa
quan trọng. Theo đó quyền lợi của bên bị
hại sẽ được thực hiện. Trong quan hệ §Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 17


Tóm lại, việc công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của toà
án nước ngoài và quyết định của trọng
tài nước ngoài phải tuân theo một số
nguyên tắc nhất định. Theo quy định của
pháp luật Việt Nam, các nguyên tắc công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của toà án nước ngoài, các quyết
định của trọng tài nước ngoài được quy
định trong BLTTDS. Theo đó toà án của
Việt Nam chỉ công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của toà án
nước ngoài, quyết định của trọng tài
nước ngoài khi việc công nhận và cho thi
hành này phù hợp với các điều ước quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập;
phù hợp với quy định của pháp luật Việt
Nam; trên nguyên tắc có đi có lại và việc
thi hành chỉ được thực hiện sau khi đã
được toà án của Việt Nam công nhận và
cho thi hành. Việc tuân thủ các nguyên tắc
này không chỉ thể hiện chủ quyền của Việt
Nam mà còn phù hợp với xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay./.

(1). Bộ luật dân sự được Quốc hội khóa IX, kỳ họp
thứ 8 thông qua ngày 28/10/1995.
(2). Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp
với 14 nước trên thế giới.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status