suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong thơ nôm hồ xuân hương - Pdf 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ HUỆ
MSSV: 6106240

SUY NGHĨ VỀ THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Sư phạm Ngữ Văn
Khóa: 36
Cán bộ hướng dẫn: Th.s LÊ THỊ NGỌC BÍCH

Cần Thơ, 5 – 2014

1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, Ban chủ
nhiệm khoa, các quý thầy cô Khoa Sư Phạm - Trường Đại Học Cần Thơ đã truyền đạt cho
tôi rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báo trong thời gian học tập tại trường.
Chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô hướng dẫn Ths Lê Thị Ngọc Bích,
khoa Sư Phạm – trường Đại Học Cần Thơ đã dành rất nhiều thời gian để tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ và luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để luận văn được hoàn thành.
Cuối cùng xin cảm ơn đến cô cố vấn và các bạn thuộc chuyên ngành sư phạm ngữ
văn đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Chân thành cảm ơn!

2


3


Tôi đã từng đọc và suy nghĩ, chiêm nghiệm nhiều về thơ bà, đó cũng là lý do thúc đẩy tôi
chọn đề tài suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương cho bài
luận văn này.

2. Lịch sử vấn đề
Hồ Xuân Hương cũng như thơ của bà đã trở thành một hiện tượng độc đáo thu hút
bao thế hệ nhà nghiên cứu say mê tìm tòi, đào sâu nghiên cứu. Đề tài về Hồ Xuân Hương
cho đến nay vẫn còn nguyên sức hấp dẫn của nó. Các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp văn chương của Xuân Hương, đực biệt là
nghiên cứu thơ bà dưới danh nghĩa là một nhà thơ của phụ nữ. Các công trình nghiên cứu
về thơ Hồ Xuân Hương luôn quy mô và phức tạp với nhiều ý kiến trái chiều. Hơn thế nữa
cuộc đời và sự nghiệp của bà luôn là một chuỗi những bí ẩn. Có nhiều cách nhìn nhận
đánh giá khác nhau về cuộc đời, sự nghiệp và con người bà nhưng cho đến tận bây giờ
vẫn chưa ngã ngũ.
Chính vì gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thân thế chính xác của Hồ Xuân
Hương mà trước đây có ít các công trình nghiên cứu về bà nhưng khi bước sang thế kỉ xx
thì nhiều nhà nghiên cứu đã vào cuộc với nhiều những hướng nghiên cứu và tiếp cận khác
nhau và bức màn bí ẩn về cuộc đời của người nữ sĩ tài hoa đã dần dần được hé lộ. Nói đến
các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương phải kể đến “Việt Nam hợp tuyển giảng
nghĩa” (1925) của tác giả Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Thành Ý, Quốc văn trích diễn
(1925) của Dương Quảng Hàm, Nam thi hợp tuyển (1927) của Nguyễn Văn Ngọc là
những cách chim đầu đàn trong việc thu thập những dữ liệu chính về thơ ca Hồ Xuân
Hương và bước đầu đi vào thơ Hồ Xuân Hương.
Về sau, các nhà nghiên cứu lại đua nhau tìm kiếm tung tích của người đàn bà bí ẩn
này với nhiều các nhiều hướng khác nhau. “Hồ Xuân Hương tác gia và tác phẩm” của
Ngô Gia Võ, “Xuân Hương đàm thoại” Của Đào Thái Tôn, “Hồ Xuân Hương thiên tài

[4, 337]. Qua những nhận định của ông, ta thấy Xuân Diệu có phần thấu hiểu được cuộc
đời của Xuân Hương cũng như nội dung những sáng tác của bà. Nhưng nhìn chung thì
nhà thơ chưa đi vào cụ thể, chưa phân tích hết các bài thơ viết về người phụ nữ trong thơ
Hồ Xuân Hương.
Nhìn chung thì các nhà nghiên cứu đều có những nhận xét chung về cuộc đời sự
nghiệp của Hồ xuân Hương và các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao tài năng của thơ bà cả
về mặt nội dung và nghệ thuật. Nhất là những vần thơ viết về phụ nữ. dưới đay xã hội , họ
phải chịu nhiều nỗi đau, nỗi bất hạnh bởi lễ giáo phong kiến nhưng vẫn toat lên vẻ đẹp
5


tâm hồn và sức sống dồi dào mạnh mẽ vượt qua mọi nghịch cảnh của cuộc đời bạc bẽo.
Tuy nhiên ở một mức độ nào đó còn có những thái độ khen chê khác nhau thậm chí có
những ý kiến mâu thuẫn mà cho đến ngày nay vẫn chưa thể lý giải một cách thoả đáng
nhưng nhìn chung sức hấp dẫn của thơ bà vẫn không bao giờ nhoà đi. Tìm hiểu, khám
phá về thơ bà phải có sự say mê và phải biết tìm về cội nguồn của thơ ca truyền thống mà
chiêm nghiệm mới thấy hết được cái hay, cái đẹp của nó.

3. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài suy nghĩ về người phụ nữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương tôi
vận dụng những phương pháp nghiên cứu và thao tác nghiên cứu sau:
Bản thân đã sưu tầm những tài liệu về cuộc đời sự nghiệp cũng như những tài liệu nghiên
cứu về thơ Hồ Xuân Hương hiện đang được lưu hành trong thư viện và nhà sách. Để từ
đó có cơ sở để phân tích làm rõ vấn đề suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương. Đồng thời phối hợp với một số thao tác khoa học như: So sánh, phân tích,
đối chiếu…để từ đó khái quát lên tư tưởng trong thơ Xuân Hương về thân phận người
phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Khẳng định vai trò và vẻ đẹp của người phụ nữ. Nội
dung được đặt trong sự so sánh với các bài thơ cùng giai đoạn của các văn sĩ khác viết về
người phụ nữ.


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương
1.1.1. Tiểu sử
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ nổi tiếng về thơ nôm bình dân thuộc cuối thế kỷ 18
đầu thế kỷ 19. Bút hiệu là Nguyệt Cổ Đường. Năm sinh năm mất chưa rõ. Đáng tiếc là về
cuộc đời của nữ sĩ, chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn
còn nhiều ý kiến trái chiều gây tranh cãi mà đến nay vẫn chưa thống nhất được. Chỉ xin
được gom nhặt vài nét về bà: Hồ xuân Hương là con ông Hồ Phi Diễn quê ở làng Quỳnh
Đôi, Nghệ An. Tương truyền Hồ Phi Diễn sinh văn 1704, đậu tú tài năm 24 tuổi dưới
triều vua Lê Bảo Thái. Vì nhà nghèo, Hồ Phi Diễn không có tiền để tiếp tục học thêm,
ông ra bắc dạy học để kiếm sống ở hai tỉnh Hải Dương và Bắc Ninh. Về sau ông lấy cô
gái Bắc Ninh họ Hà làm vợ lẽ. Đó chính là mẹ của Xuân Hương. Xuân Hương sinh
trưởng ở đất bắc, phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây Thăng Long Hà
Nội. Bà vốn thông minh và được cho đi học từ nhỏ nhưng sau khi cha và anh mất vì nhà
nghèo nên bà được đi học rất ít nhưng với tinh thần ham học hỏi bà tự học và thành thạo
cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Khi trưởng thành bà có một ngôi nhà ở gần Hồ Tây lấy tên là
Cổ Nguyệt đường. Đây cũng là nơi bà họp mặt các bạn thơ và là một trong những nơi ghi
dấu những sáng tác của bà.
Theo lời ông Tấn Phong tả nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì biết bà không chỉ tài hoa mà
còn là người phụ nữ đẹp và có duyên:
“Ngắm dường tiên nữ thác thân xuống trần
Hoan Châu vốn tiếng đẹp thuần
Sao khuê rạng vệ mười phân vẹn toàn
Nhớ chăng chín chín hồng san
Hoa mai riêng chiếm trời xanh để dành”
Bà sinh ra trong giai đoạn lịch sử nước nhà đang có những cuộc sóng gió. Trịnh
Sâm lên ngôi chúa mê tửu sắc. Vì yêu Thị Huệ, Trịnh bỏ con trưởng là Trịnh Khải, lập
con thứ lảTrịnh Cán. Gây ra sự tranh giành quyền lực. Đàng trong thì quận chúa Nguyễn
lăm le ra đánh. Trước nghịch cảnh đó, bọn quan lại thì chỉ biết lịnh bợ, luồn cúi làm lẽ

Hương “chừng trên đưới mười tuổi gì đó”; Nhưng trên thực tế thì những bài thơ họ xướng
hoạ cả hai người lại bằng vai và rất hợp ý. E rằng nếu có khoảng cách tuổi tác lớn thế thì
rất khó mà xướng hoạ như vậy. Xuân Hương đối trọi từng câu chữ với Chiêu Hổ, ganh
9


đua nhau từng vần thơ rồi lại giễu cợt nhau. Xuân Hương ngang nhiên gọi Chiêu Hổ là
cuội: “Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt/ Nhớ hái cho xin nắm lá đa”
Chiêu Hổ cũng chẳng vừa, ông hoạ lại:“Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt/ Cho cả
cành đa lẫn củ đa”. Xuân Hương và Chiêu Hổ như đôi câu đối hợp nhau, hễ ở đau có
Xuân Hương thì ở đó có Chiêu Hổ. Nhắc đến Chiêu Hổ là nhớ đến Xuân Hương. Phải chi
hai người thành đôi thì hay biết mấy.
Sau khi trải qua các cuộc hôn nhân không mấy thành công, Xuân Hương có dịp
rảnh rỗi, bà dành thời gian đi thăm các danh lam thắng cảnh ở miền bắc và miền trung. Bà
đi đến đâu thì bước chân của bà lại in dấu thơ ở đó.
Có thể nói rằng Xuân Hương không phải một người phụ nữ bình thường của thời
đại mà bà là một nữ sĩ tài hoa nhưng cuộc đời bà đầy sóng gió và thử thách. Chính điều
đó đã làm nên một nét thơ, một nhân cách rất Xuân Hương.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài hoa, bà đã để lại nhiều bài thơ với phong cách thơ
vừa thanh vừa tục và được người đương thời yêu quý gọi là “bà chúa thơ nôm”. Thơ bà
được đánh giá cao trong nền văn học nước nhà. Hồ Xuân Hương được coi là một trong
những nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ
XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX là vì những sáng tác của bà đã nêu bật được những vấn đề
riêng tư đó là những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu
đựng và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi phụ nữ. Những vấn đề tưởng chừng
giản dị của đời thường nhưng khi đi vào thơ bà lại rất mới mẻ, sinh động.
Thơ bà được gom nhặt lại không nhiều do bị thất lạc và có nhiều bài thơ của bà còn gây
nhiều tranh cãi trong việc xác định liệu có phải thơ bà hay không? Nhìn chung bà để lại
khoảng 50 bài thơ nôm và tập thơ “Lưu hương ký”. Ta tạm chia thơ bà làm hai phần:

đối lập nhau một cách rõ rệt. Khuynh hướng thứ nhất là những người mạt sát, chỉ trích
Xuân Hương. Tiêu biểu đó là Nguyễn Văn Hanh và Trương Tửu. Nguyễn Văn Hanh cho
rằng thơ Xuân Hương là sự khủng hoảng về sinh lý, và bản thân Xuân hương là một
người mắc bệnh tâm thần. Trương Tửu thì giải thích thiên tài của Xuân Hương là “cái
thiên tài hiếu dâm đến cực điểm” là sản phẩm của một não trạng mà “não trạng ấy là di
tích của một tôn giáo thờ sự sinh đẻ”.
Đối lập với khuynh hướng trên, là khuynh hướng hết sức tán tụng thơ của Hồ
Xuân Hương. Tiêu biểu là Hoa Bằng, Hoàng Thúc Trâm viết “Một cây bút thuần túy Việt
Nam hơn hết, đặc sắc hơn hết, không những làm rung động cả một rừng nho đương thời,
11


mà lại còn soi rọi trên trên đường văn học Việt nam những tia rất sang ngời, rất rực rỡ.
Ấy là nhà thơ cách mệnh Hồ Xuân hương” (Quốc văn đời Tây Sơn), lại một dịp khác ông
ca ngợi Hồ Xuân Hương “chẳng những là nhà đại thi hào, mà lại là nhà đại tư tưởng, đại
cách mạng nữa!” nhưng những danh tù to tát mà Hoa Bằng sử dụng dường như không
phù hợp với thực tế sáng tác của Hồ Xuân Hương
Khác với Hoa Bằng, lê Dư cũng khen ngợi nữ sĩ nhưng bằng cách khác “thơ nàng
xưa nay ai cũng kêu là có ý thô tục, nhưng xét kĩ tục mà thanh; Dù nàng không có cái vẻ
đứng đắn , cái giọng đa cảm đa sầu như bà huyện Thanh Quan, nhưng lắm bài rất có khí,
có tình”.
Khi bàn luận về thơ Xuân Hương luôn có những nhận định, đánh giá khác nhau. Thơ của
nữ sĩ cũng giống như trái sầu riêng vậy, kẻ thì tấm tắt khen ngon, người khi bịt mũi quay
đi chê nặng mùi. Nhưng dù thế nào thì trái sầu riêng đó vẫn tỏa hương cho đời mặc cho
người đời khen chê.
Nhìn chung, thơ Xuân Hương được lưu truyền nhiều trong dân gian nên “tam sao
thấp bản” là việc không thể tránh được. Nhưng dù sao thì qua những công trình nghiên
cứu, ta đã kết luận được một số vấn đề sơ bộ. Đó là nhà thơ có cuộc đời hoàn toàn không
như ý. Nữ sĩ họ Hồ sống vào thời kỳ mà chế độ phong kiến hoàn toàn mục rỗng, thêm vào
đó bà lại xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn. Cuộc sống đã đẩy Xuân Hương

cảnh như cựa mình bước ra từ trang giấy. Ta nói thơ bà bình dân là vì lúc nào trong thơ
cũng phản phất hương vị quê hương nào là con ốc, quả mít, cái bánh trôi nước, cỏ gà, lá
diếc lá trầu, quả cau, con ong, cái giếng… Những thứ tưởng chừng rất đỗi thân thuộc và
bình dị với người dân nông thôn nhưng bước vào thơ Xuân Hương lại trở nên sinh động
và ngồng ngộn sức sống.
Thơ bà bình dị nhưng không phải thứ thơ tầm thường vì khi cần dùng đến nghệ
thuật thì chẳng ai bì được. Thơ Xuân Hương từ đường nét đến âm thanh, mỗi chi tiết dù
nhỏ cũng rất độc đáo. Ngôn từ thật sắc bén với những từ láy được chọn lọc đem vào sử
dụng một cách tinh tế đến tài tình. Các bài thơ được bà gieo vần cũng quả thật là có một
không hai. Một điều đặc biệt là thơ Xuân Hương lấy đề tài trong cuộc sống bình thường
hàng ngày nhưng là những đề tài có tính chất úp mở hai nghĩa. Một nghĩa đen phô ra nói
trực tiếp về vấn đề mà nhà thơ muốn miêu tả trực tiếp. Bên cạnh đó còn một nghĩa ngầm
nói về chuyện buồng the, “phồn thực”. Chính vì những điều này mà có một số người cho
thơ bà là dâm, là tục. Nhưng thực ra thơ Xuân Hương đâu có khơi gợi tình dục mà chỉ tả
và thuật như chính nó vốn đã như thế.
13


Cái quạt thì: “Mỏng dày chừng ấy chành ba góc/ Rộng hẹp dường nào cắm một
cây”.
Con ốc thì:“Quân tử có thương thì bóc yếm/ Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”.
Quả mít thì: “Quân tử có thương thì đóng cọc/ Xin đừng mâm mó nhựa ra tay”
Thơ bà được dân gian ưu chuộng là vì lối thơ của bà bình dân nhưng thâm thuý,
khi đọc lên cứ đọc thoải mái, dễ thuộc vì những câu thơ đăng đối với nhau theo vần nhịp
rất điêu luyện nhưng lại cứ như lời ăn tiếng nói hằng ngày.

1.2. Những đóng góp của thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong nền văn học
nước nhà.
Hồ Xuân Hương đã có cống hiến to lớn vào thơ ca Việt Nam cũng như cho ngôn
ngữ văn học của dân tộc. Thơ bà là một đóng góp độc đáo vào lịch sử văn học nước nhà.

chất và tâm hồn. Từ đó Xuân Hương tìm thấy vẻ đẹp của người phụ nữ, nêu bật vẻ đẹp
bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ và vạch trần bộ mặt thật của giai cấp thống trị tàn ác.
Xuân hương đã đi ngược với xã hội đó để cất tiếng nói đầy cá tính của mình. Đó là tiếng
nói mạnh mẽ của người phụ nữ nói về chính giới mình, giới nữ với vẻ đẹp tâm hồn, tài
năng và đặc biệt là vẻ đẹp hình thể. Nữ sĩ cất tiếng nói đòi quyền của người phụ nữ:
Quyền được làm vợ, làm mẹ, được tôn trọng và được hưởng hạnh phúc gối chăn một cách
trọn vẹn. Đó là những quyền sống tối thiểu và tất yếu của người phụ nữ. Tiếng nói ấy
chân thành, rõ ràng đầy tự hào và đầy bản lĩnh. Cái phần tích cực trong thơ Xuân Hương
là rất lớn vì bà đã dũng cảm lên tiếng đả kích xã hội thối nát bằng tất cả uất giận và tài
năng thi ca của mình. Chính sự lãng mạn, dũng cảm hơn người của bà : dám nói ra không
chút ngần ngại những điều bà suy nghĩ, những điều mắt thấy tai nghe. Những điều được
coi là cấm kị mà không ai dám nói tới. Chính điều đó đã làm cho người đọc thơ yêu mến
và hâm mộ bà.
Thơ bà là tiếng nói của tầng lớp bình dân, thấu hiểu cảm thông với họ. Đọc thơ
Xuân hương, người đọc sẽ tiếp nhận được một hồn thơ với đầy đủ dũng khí, táo bạo, một
hồn thơ hết sức độc đáo đã chống lại xã hội áp bức, đã bênh vực phụ nữ, đã hòa mình vào
15


tầng lớp bình dân. Vì lẽ đó mà thơ bà bao giờ cũng rất quần chúng, rất bình dân và cũng
rất Hồ Xuân Hương. Trong xã hội cũ tầng lớp phong kiến khắt khe, nghiệt ngã càng lên
án, cố gạt bỏ thơ Xuân Hương bao nhiêu thì quần chúng lao động lại càng yêu thích thơ
Xuân Hương bấy nhiêu. Có thể khẳng định rằng thơ Hồ Xuân Hương ngày càng được
người đời tiếp nhận và đánh giá cao vì họ cảm thấy thơ Xuân Hương gần giũi thân thiết
với họ. Xuân Hương nói lên tiếng lòng của họ bằng thứ ngôn ngữ nôm na , giản dị đời
thường còn giai cấp thống trị thì sợ hãi trước sự nổi loạn của bà. Thơ bà thấm đẫm tinh
thần nhân văn cao cả nhưng cũng giống như gáo nước lạnh tạt vào mặt bọn phong kiến
thối nát.
Nhìn chung, Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài năng. những bài thơ của Xuân
Hương xung quanh chủ đề người phụ nữ dưới chế độ cũ là một đóng góp độc đáo vào lịch

Và cũng trong xã hội đó, người phụ nữ được cưới về là để thoả mãn cho người đàn
ông và để có sức lao động mà không phải bỏ tiền ra mướn nhân công. Họ quanh quẩn với
công việc nhà, việc đồng áng đầu tắt mặt tối rồi chồng con. Họ lúc nào cũng sống vì
người khác và phải cắn răng chấp nhận mọi đắng cay.
Vì thế mà từ xưa đến nay, người phụ nữ Việt Nam vốn dĩ có tính cần cù, chịu
thương chịu khó và giàu đức hi sinh. Chẳng biết từ bao giờ việc chăm lo cho chồng, yêu
thương các con là bổn phận của người phụ nữ:
“Con cò lặn lội bờ ao
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
(Ca dao)
Chế độ của xã hội cũ cho phép người đàn ông có nhiều vợ, còn người phụ nữ chỉ
được “chín chuyên một chồng”. Chính vì thế mà phụ nữ luôn phải chịu thiệt thòi:
“Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh ham vợ bé bỏ bè con thơ”
(Ca dao)

Hay như:
“Có thịt anh tính phụ xôi
Có cam phụ quýt có người phụ ta”
(Ca dao)

17


Phải nói rằng phụ nữ trong xã hội cũ luôn được coi là tầng lớp dưới đáy của xã hội.
Họ không được quyền quyết định hạnh phúc, tương lai của mình, không được hưởng các
đặc quyền đặc lợi chỉ dành cho nam giới (như đi học, làm quan). Văn học dân gian phản
ánh một bức tranh toàn cảnh trong cái nhìn cận cảnh về nỗi khổ của người dân lao động
nói chung và nỗi thống khổ của người phụ nữ nói riêng. Họ có nhiều đóng góp cho gia
đình, xã hội nhưng chẳng bao giờ được nhìn nhận. Tiếng kêu của những người phụ nữ

Xuân Hương, Đặng Trần Côn.
Đại thi hào Nguyễn Du đã thành công rực rỡ khi ông viết về đề tài phụ nữ đặc biệt
là “Truyện Kiều”. Thuý Kiều là hiện thân về nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Mọi thứ trước mắt Kiều dường như vụn vỡ: Tình yêu tan vỡ, chịu kiếp lầu
xanh, làm nô tì, làm vợ lẽ, bị người đời chà đạp cả về thể xác lẫn nhân phẩm. Thế lực
quan lại, nhà chứa và đồng tiền đã đưa đến cho kiều một cuộc đời đầy sóng gió. Nguyễn
Du không phải phụ nữ nhưng lại thông cảm với Kiều đến lạ kì. Có lẽ chỉ có bậc thi hào
với lòng nhân đạo cao cả, tấm lòng yêu thương con người bao la mới có thể đồng cảm
đến như vậy.
Cũng viết về phụ nữ nhưng ở một phía cạnh khác đã gây được tiếng vang phải kể
đến “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Trong văn học Việt Nam đề tài chiến tranh
với tiếng nói oán trách đã vang lên từ rất lâu và nó đã để lại cho người đọc những niềm
xót xa thương cảm. “Chinh phụ ngâm là lời oán trách của người phụ nữ có chồng ra trận,
ngày ngày chờ đợi ngóng tin chồng làm cho người phụ nữ mòn mỏi, hao gầy.
“Hồn sĩ tử gió hù hù thổi
Mặt chinh phụ trăng dõi dõi theo”
Dõi tầm mắt ra chiến trường xa xôi ấy, nàng cảm nhận được cái lạnh của gió, cái
lạnh do chất sắt thép của vũ khí, của tiếng ngựa hí, tiếng quân reo và của cả những xác
chết...Người chinh phụ dường như linh cảm được việc chẳng lành.
“Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?”
Quả thật đúng vậy chiến tranh khi ra chiến trận mấy kẻ trở về, chiến tranh phong
kiến chỉ đem con người đến chỗ chết. Tác giả nói đến chiến tranh nhưng không phải dưới
cái nhìn của người đi chinh chiến cũng không phải cái nhìn chủ quan của tác giả mà bằng
con mắt đẫm lệ của người hậu phương. Nỗi sầu và sự bất lực bủa vây người chinh phụ,
Nàng nhớ chồng tha thiết và chỉ còn cách tìm đến giấc mộng, mượn mộng mơ làm cầu
nối để gặp chàng.
19



20


(Truyện Kiều)
Nguyễn Du dù mang tư tưởng nho gia cũng phải cho rằng đây là một sản phẩm của
đất trời và đưa nét đẹp tự nhiên này vào làm đẹp cho tác phẩm của mình.
Văn học thời kỳ này nổi lên với tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện con người
cá nhân với bao khát khao hạnh phúc đời thường. Đặc biệt là đời sống tình cảm của người
phụ nữ. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm miêu tả một cách
thống thiết số phận của người phụ nữ tài sắc nhưng bị đấng quân vương bỏ rơi và cũng
không chịu giải thoát họ khỏi cung cấm . Người cung nữ này chỉ được coi là một công cụ
tình dục để thỏa mãn cho bạc đế vương. Sau khi đã chán chường ong bướm rồi thì lại rũ
bỏ không chút thương tiếc.
“Bóng gương lấp ló dưới mành
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”
(Cung oán ngâm khúc)
Đề cập đến vấn đề quan hệ giới tính nhưng cái tài của Nguyễn Gia Thiều là ông
biết mô tả những chuyện ái ân trần tục dưới lớp ngôn ngữ nghệ thuật bác học, thanh tao:
“Cái đêm hôm ấy đêm gì
Bóng dương lồng bóng trà mi trập trùng”
Đặng Trần Côn thì miêu tả một dêm trăng nguyệt, hoa nguyệt như có tình, quấn
quýt giao hòa … Còn con người thì đơn chiếc:
“Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trên hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau”
(Chinh phụ ngâm)
Nhìn hoa nguyệt có đôi có cặp người chinh phụ không khỏi chạnh lòng, cái chạnh
lòng sâu sắc của người đàn bà lẻ bóng đã từng yêu thương và được yêu thương.
Văn học giai đoạn này khám phá con người và khẳng định những giá trị chân

Đọc bài thơ “mời trầu” ta thấy đâu đây phản phất hương vị của truyền thống dân
tộc. Người Việt Nam ta từ ngàn xưa đã có tục lệ tiếp khác bằng quả cau, miếng trầu
“miếng trầu là đầu câu chuyện” và cách cắt cau, têm trầu như thế nào lại thể hiện sự khéo
léo của người phụ nữ. Từ cổ xưa dân tộc ta đã có truyện dân gian “Trầu cau” vừa giải
thích tục ăn trầu, vùa ngợi ca tình nghĩa keo sơn gắn bó giữa anh em, vợ chồng. Không
chỉ thế trầu cau còn là biểu tượng cho tình duyên, là cầu nối cho sự gắn bó lâu dài của lứa
đôi. Trong ca dao, miếng trầu quả cau nói về tình yêu trai gái:
“Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng thơm môi đỏ dạ sầu đăm chiêu”
(Ca dao)
Về những éo le trong tình duyên:
“Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không”
(Ca dao)

Hay như:
“Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng người thô tham dày”
(Ca dao)
23


Xuân Hương đã sử dụng nét truyền thống đó để bộc bạch khát khao hạnh phúc đơn
sơ của riêng mình cũng như của chị em phụ nữ:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
(Mời trầu)

bạc là màu mà mỗi người phụ nữ phong kiến khi sinh ra đã phải mang lấy bởi thói đời
vốn dĩ bạc bẽo với người phụ nữ. Sau lời mời trầu là lời nhắn nhủ “xanh như lá” “bạc như
vôi” hai câu thơ biểu đạt hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất nói về việc ăn trầu. tầng
nghĩa thứ hai nói về duyên đôi lứa: Nếu phải duyên thì hãy mở lòng ra để đến với nhau
chứ đừng có bội bạc, cạn tình. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình trở nên sống động, đau sót,
tê tái hơn bao giờ hết từ việc rầu rĩ đến chỗ hờn giận cho duyên kiếp mình.
Bài thơ nói về trầu cau, biểu trưng cho sự nên duyên của vợ chồng, của hạnh phúc
lứa đôi nhưng miếng trầu trong thơ Xuân Hương nói lên một tấm lòng, một ước ao, lời
nhắn nhủ mời trầu cho ta thấy niền khát khao của nữ thi sĩ hướng tới chân trời hạnh phúc,
đồng thời là dự cảm về số phận của người phụ nữ. Trước cuộc đời bạc bẽo tàn nhẫn, nỗi
đắng cay trong tình duyên là lời nhắn nhủ cũng cho thấy cá tính mạnh mẽ của Xuân
Hương đòi hỏi trong tình yêu phải thủy chung, phải lên án thói bạc tình. Bà xoáy sâu vào
cuộc đời nêu lên những bi kịch: cuộc đời cũ ai cũng khổ nhưng khổ nhất là người phụ nữ.
2.1.2.Nỗi đau về thân phận làm lẽ
Xuân Hương đưa cuộc đời riêng của mình vào thơ. Lấy chồng hai lần đều làm lẽ
và cũng thật ngắn ngủi nên bà rất hiểu và thông cảm cho những người phụ nữ không gặp
may mắn trong đường tình duyên: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn
bông kẻ lạnh lùng” (Lấy chồng chung)

25


Trích đoạn Sự khác nhau về hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và các tác giả
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status