XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN VỀ PHẦN NHIỆT ĐỘNG LỰC HỌC - Pdf 31

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA VẬT LÍ


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN VỀ PHẦN NHIỆT
ĐỘNG LỰC HỌC

SVTH : NGUYỄN THANH LOAN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _ NĂM 2009


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

X

uất phát từ mục đích của việc dạy học : phát triển con người toàn diện, có

khả năng thích ứng và hội nhập với cuộc sống năng động và biến đổi từng

ngày. Đó là con người phải biết giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra hàng
ngày và do đó phải biết học tập suốt đời do lượng kiến thức nhân loại tiếp thu
được ngày càng tăng nhanh theo một cấp số nhân trong khi thời gian và lượng

pháp này có ưu điểm là cho thấy được khả năng tư duy, lí luận của sinh viên tuy
nhiên nó còn một số hạn chế như : bài kiểm tra không bao quát hết nội dung
chương trình dẫn đến tình trạng học tủ , tốn nhiều thời gian làm bài và chấm bài,
việc chấm bài chưa được khách quan, người học có thể gian lận trong lúc làm bài.
Bên cạnh đó có một hình thức thi có thể khắc phục được những mặt hạn chế của
hình thức thi tự luận đó là hình thức thi trắc nghiệm khách quan. Với một bài thi
nhiều câu hỏi thì hình thức thi trắc nghiệm khách quan có thể bao quát hết nội
dung của chương trình học, từ một đề thi gốc có thể tạo ra nhiều đề thi khác mà
chất lượng mỗi đề vẫn thi như nhau, từ đó hạn chế được sự gian lận trong thi cử,
thêm vào đó có thể chấm bài thi rất nhanh mà lại rất khách quan.
Từ những ưu điểm của hình thức kiểm tra và đánh giá kết quả học tập bằng
trắc nghiệm khách quan cùng với xu hướng của giáo dục hiện nay thì hình thức thi
trắc nghiệm khách quan đã và đang được áp dụng ở mọi cấp học. Trong các kì thi
tuyển sinh Đại học và Cao đẳng những năm gần đây Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
cũng đã sử dụng hình thức thi trắc nghiệm khách quan. Các trường Đại Học trong
cả nước, cũng như ở trường Đại Học Sư Phạm TP.HCM và khoa Vật Lý của em
cũng đã áp dụng hình thức thi trắc nghiệm khách quan này.
Nhận thấy được nhiều ưu điểm của hình thức thi trắc nghiệm khách quan và
với mong muốn được giúp cho các bạn sinh viên trong khoa Vật Lý có thêm tài
liệu tham khảo về hình thức thi trắc nghiệm khách quan trong lĩnh vực Nhiệt học
nên em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu là : “XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN VỀ PHẦN NHIỆT ĐỘNG
LỰC HỌC” cho sinh viên khoa Vật lý trường Đại Học Sư Phạm TP.HCM.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
 Nghiên cứu cách thức soạn thảo và sử dụng phương pháp trắc nghiệm
khách quan.
 Ứng dụng cách thức soạn thảo câu trắc nghiệm để xây dựng hệ thống câu
hỏi trắc nghiệm khách quan phần : “Nhiệt động lực học ”.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan

+ Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến hình thức kiểm tra và đánh giá bằng
phương pháp trắc nghiệm khách quan.
+ Tham khảo các tài liệu chuyên môn liên quan đến phần: “Nhiệt động lực học ”.
 Về mặt thực nghiệm :
+ Tổ chức thi trắc nghiệm với hệ thống câu trắc nghiệm đã soạn sẵn cho sinh viên
năm nhất hệ chính quy và cử nhân khoa Vật Lý của trường Đại Học Sư Phạm
TP.HCM.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

+ Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê để đánh giá lại hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm.
 Về phương tiện :
+ Tìm kiếm tài liệu thông qua sách giáo trình và mạng Internet.
+ Các đề thi trắc nghiệm trước đây.
+ Máy vi tính và phần mềm soạn đề trắc nghiệm.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

PHẦN II : NỘI DUNG


SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

Các phương pháp trắc nghiệm :

Các loại trắc nghiệm
Quan sát

Viết

trắc nghiệm khách quan

Vấn đáp
trắc nghiệm tự luận

Đúng sai

Tiểu luận

Ghép đôi

Giải đáp vấn đề đặt ra

Điền khuyết
Nhiều lựa chọn

đề cùng với những thông tin cần thiết sao cho người học chỉ phải trả lời vắn tắt cho
từng câu.
+ Ưu điểm của phương pháp viết là có thể kiểm tra nhiều người cùng một lúc và có
thể đo lường được tư duy ở mức độ cao.
 Lịch sử nghiên cứu về trắc nghiệm khách quan :
- Phương pháp đo lường thành quả học tập bằng phương pháp trắc nghiệm khách
quan đầu tiên được tiến hành vào thế kỉ XVII-XVIII tại Châu Âu. Sang thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX phương pháp trắc nghiệm khách quan đã được chú ý nhiều hơn.
- Năm 1904 nhà tâm lý học người Pháp Alfred Binet trong quá trình nghiên cứu trẻ
em mắc bệnh tâm thần, đã nghiên cứu một số bài trắc nghiệm về trí thông minh. Vì
vậy trắc nghiệm trí thông minh được gọi là trắc nghiệm Stanford-Binet.
- Vào đầu thế kỉ XX, E. Thorm Dike là người đầu tiên dùng phương pháp trắc nghiệm
khách quan để đo lường trình độ của học sinh trong môn đại số và sau đó là một số
môn khác.
- Ở Việt Nam trắc nghiệm khách quan được sử dụng muộn hơn. Năm 1960 đã có một
số tác giả sử dụng trắc nghiệm khách quan trong ngành học tâm lý.
- Năm 1969 tác giả Dương Thiệu Tống đã đưa một số môn trắc nghiệm khách quan
vào giảng dạy tại lớp cao học ở trường Đại học Sài Gòn.
- Năm 1974 ở miền Nam đã thi tú tài bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan.
- Tháng 7 năm 1996 phương pháp trắc nghiệm khách quan đã được thí điểm trong kì
thi tuyển sinh đại học tại trường Đại Học Đà Lạt và đã thành công.
- Hiện nay hình thức thi trắc nghiệm đã được sử dụng rộng rãi tại các trường Đại Học
cũng như phổ thông.
c. Kiểm tra là gì ?
- Là một hoạt động nhằm cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho
việc đánh giá.
- Các loại kiểm tra thường gặp :
1. Kiểm tra thường xuyên : giáo viên thực hiện thường xuyên trong lớp học dưới
nhiều hình thức : quan sát có hệ thống diễn biến hoạt động của lớp, khi ôn tập bài cũ,


công việc.
- Đánh giá là phương tiện để xác định các mục đích và mục tiêu của một công việc có
đạt được hay không.
- Đánh giá là quá trình thu nhập, phân tích, và giải thích thông tin một cách có hệ
thống nhằm xác định mức độ đạt đến các mục tiêu giảng dạy về phía học sinh.
- Các loại đánh giá :
Đánh giá khởi sự : là lối đánh giá liên quan đến thành tích ban đầu, những kiến thức,
kỹ năng nào mà học sinh đang có để bước vào nội dung giảng mới.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

Đánh giá hình thành : được dùng để theo dõi sự tiến bộ của học sinh trong quá trình
giảng dạy, nhằm giúp giáo viên điều chỉnh lại hoạt động dạy.
Đánh giá chẩn đoán : liên quan đến sự khó khăn của học sinh trong quá trình học tập
mặc dù giáo viên đã cố gắng sửa chữa bằng mọi cách, lúc này người giáo viên phải
đánh giá chẩn đoán chi tiết hơn nữa nhằm phát hiện ra nguyên nhân và biện pháp sửa
chữa.
Đánh giá tổng kết : thường được thực hiện vào cuối thời kỳ giảng dạy một khóa học.
Đánh giá loại này nhằm xác định mức độ đạt được các mục tiêu giảng huấn của học
sinh đến đâu, từ đó xem xét lại hiệu quả của việc giảng dạy.
3.Các loại trắc nghiệm :
 Trắc nghiệm tâm lý và trắc nghiệm giáo dục :
+ Trắc nghiệm tâm lý là các trắc nghiệm dùng để đo phẩm chất và khả năng tâm lý
của con người. Chẳng hạn như : Trắc nghiệm trí tuệ, trắc nghiệm nhân cách, …..
+ Trắc nghiệm giáo dục là các trắc nghiệm liên quan đến đo lường các thành quả học

mục tiêu của một quốc gia, vùng rộng mục tiêu của một lớp học.
lớn.
- Đề cập đến những phần rộng của trí - Đề cập đến một chủ đề hay một kỹ
năng chuyên biệt nào đó.

thức.

- Được soạn thảo bởi các chuyên gia - Được soạn thảo bởi một giáo viên.
trắc nghiệm.
- Sử dụng câu trắc nghiệm đã được thử - Dùng những câu trắc nghiệm chưa
nghiệm.

được kiểm chứng.

- Có độ tin cậy cao.

- Có độ tin cậy không cao.

- Cung cấp các chuẩn mực cho nhiều - Thường được giới hạn trong lớp học
nhóm người khác nhau.

hay một trường.

4. Cơ sở để đánh giá bài trắc nghiệm :
a.Tính tin cậy:
Là một khái niệm cho biết mức độ ổn định, tính vững chãi của các kết quả đo được
khi tiến hành đo vật thể đó nhiều lần.
Ví dụ : khi cân một gói đường, lần đầu tiên cân được 105gam, lần hai cân được
100gam, lần thứ ba cân được 95gam, ta nói cái cân có tính tin cậy.
Một bài trắc nghiệm được xem là đáng tin cậy khi nó cho ra những kết quả có tính

đo đúng được cái cần đo.
Ví dụ : Khi cân gói đường 100gam, nếu bỏ lên cân thấy 100gam thì cái cân có tính
giá trị, nếu cân nhiều lần thấy 80gam thì cái cân có tính tin cậy chứ không có tính giá
trị.
Phân loại tính giá trị của các câu trắc nghiệm:
 Giá trị đồng thời : nói lên mối liên hệ giữa điểm số của bài trắc nghiệm với
một tiêu chí khác đồng thời, đã có sẵn mà bài trắc nghiệm muốn đo lường.
 Giá trị tiên đoán : nói lên mối liên hệ giữa điểm số của bài trắc nghiệm với một
tiêu chí khác căn cứ vào khả năng ở thời điểm tương lai.
 Giá trị nội dung : là mức độ bao trùm được nội dung môn học, bài học.
 Giá trị khái niệm tạo lập : là giá trị liên quan đến các loại học tập được quy
định trong các mục tiêu dạy và học như : mục tiêu biết, thông hiểu, phân
tích…
 Giá trị thực nghiệm : là loại giá trị nói lên sự tương quan giữa các điểm số trắc
nghiệm với một tiêu chí ( hay một loại đo lường nào khác) về khả năng mà bài
trắc nghiệm muốn đo lường.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

 Giá trị yếu tố : là sự tương quan giữa bài trắc nghiệm ấy với yếu tố chung cho
cả một nhóm gồm nhiều bài trắc nghiệm.
Chú ý : Một bài trắc nghiệm có thể có tính tin cậy mà không có tính giá trị. Nhưng
một bài trắc nghiệm không có tính tin cậy thì chắc chắn không có tính giá trị.
II. Trắc nghiệm khách quan và luận đề
1. So sánh về tự luận và trắc nghiệm khách quan

thuộc vào kĩ năng của người soạn đề.

- Dễ soạn đề tự luận nhưng khó chấm - Khó soạn đề trắc nghiệm nhưng dễ
bài, khó cho điểm chính xác.

chấm bài, dễ cho điểm số chính xác
hơn.

- Người làm bài có nhiều bộc bạch cá - Người soạn đề được tự do bộc lộ kiến
tính của mình trong câu trả lời, người thức và kỹ năng của mình qua việc đặt
SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

chấm bài có thể tự do cho điểm theo xu các câu hỏi, người làm bài thì không
hướng của mình.

được tự do trả lời theo ý kiến riêng của
mình.

- Các mục tiêu trong học tập không thể - Các mục tiêu trong học tập được
hiện được rõ ràng.

người giáo viên thẩm định rõ ràng hơn.

- Cho phép và đôi khi khuyến khích sự - Cho phép và đôi khi khuyến khích sự
“ lừa phỉnh ”. Vì người học có thể dùng phỏng đoán. Vì người học có thể chọn

SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

 Khi ta có nhiều câu trắc nghiệm tốt đã được dự trữ sẵn để có thể lựa chọn và
cấu trúc lại một bài trắc nghiệm mới.
 Khi ta muốn chấm nhanh và công bố kết quả sớm.
 Khi ta muốn ngăn ngừa nạn học tủ, học vẹt, và gian lận trong thi cử của học
sinh.
2. Ưu điểm và nhược điểm của trắc nghiệm khách quan và luận đề
a. Ưu điểm
 Với nội dung bài trắc nghiệm khoảng 30-40 câu, và mỗi câu lại có nhiều
phương án lựa chọn do đó bài trắc nghiệm có thể kiểm tra được nhiều nội
dung của môn học.
 Với đáp án của mỗi bài trắc nghiệm đã có sẵn, hoặc là đúng hoặc là sai do đó
điểm số của bài trắc nghiệm không phụ thuộc vào sự chủ quan của người
chấm bài.
 Nội dung kiến thức trong bài kiểm tra trắc nghiệm tương đối rộng do đó người
học khó có thể học tủ.
 Mỗi câu hỏi có nhiều lựa chọn, và có thể tạo ra nhiều đề thi bằng cách tráo câu
hỏi do đó người học khó có thể gian lận trong thi cử.
 Có thể kiểm tra nhiều người mà thời gian chấm bài lại nhanh chóng.
 Ít tốn công chấm bài.
b. Nhược điểm :
 Tốn nhiều công sức để soạn đề trắc nghiệm.
 Không đánh giá được khả năng diễn đạt, khả năng tư duy.
 Học sinh dễ đoán mò.

 Các câu trắc nghiệm loại này được cho là tầm thường vì người soạn đề thường
lấy sẵn những câu có trong sách.
 Loại câu trắc nghiệm này thường được trích sẵn trong sách nên người làm bài
trắc nghiệm chỉ cần học vẹt. Như vậy là chưa đánh giá được khả năng hiểu
thấu đáo của người học.
 Những câu phát biểu loại này nếu dùng lời văn không chính xác, hay là thiếu
thông tin sẽ gây khó khăn cho người làm trắc nghiệm.
 Câu phát biểu loại này thường không có câu phát biểu khác để so sánh, do đó
nó có thể đúng trong trường hợp này nhưng sai trong trường hợp khác.
c. Yêu cầu khi soạn câu trắc nghiệm loại này :
 Những câu phát biểu loại này phải dựa trên những kiến thức căn bản, và phải
chắc chắn là kiến thức đó là đúng hay sai. Không được dựa trên cảm tính đúng
hay sai của người soạn câu trắc nghiệm.
 Chọn câu phát biểu nào mà một người có khả năng trung bình không thể nhận
ra ngay là đúng hay sai, mà phải có chút suy nghĩ mới có thể nhận ra.
 Mỗi câu trắc nghiệm chỉ nên diễn đạt một ý, tránh dùng những câu phức tạp,
bao gồm quá nhiều chi tiết.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

 Không nên chép nguyên văn những câu trích từ sách, như vậy dễ khuyến khích
người học thuộc bài một cách máy móc.
 Tránh dùng những từ như “ tất cả”, “không bao giờ”, “luôn luôn”...những từ
này thường diễn đạt một phát biểu sai. Cũng như tránh những từ “thường
thường”, “đôi khi”, “có khi”...những từ này thường diễn đạt một phát biều

 Có thể hỏi người làm bài được nhiều vấn đề trong một câu hỏi, đòi hỏi người
làm phải có so sánh, phân tích trước khi chọn đáp án.
SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

 Nếu soạn đúng quy cách, kết quả bài trắc nghiệm có tính tin cậy và tính giá trị
cao.
 Loại câu hỏi này dễ soạn, dễ dùng và phù hợp tâm lý học sinh.
 Có hiệu quả trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ thức, hay lập các
mối tương quan.
b. Nhược điểm :
 Không hiệu quả cho việc kiểm tra đánh giá khả năng sắp đặt và vận dụng của
học sinh.
 Học sinh tốn nhiều thời gian để đọc.
 Đòi hỏi thời gian nhiều để soạn câu trắc nghiệm loại này.
 Tốn nhiều thời gian chấm điểm cho câu trắc nghiệm loại này.
 Tốn nhiều thời gian chấm điểm cho câu trắc nghiệm loại này hơn.
c.Yêu cầu khi soạn câu trắc nghiệm loại này :
 Phải đặt số lựa chọn ở cột 2 nhiều hơn số câu hỏi ở phần gốc. Vì khi người
làm bài trả lời được gần hết đáp án chỉ còn một hai câu thì họ có thể đoán đúng
được câu còn lại.
 Không nên soạn các lựa chọn cũng như các từ gợi ý ở cả 2 cột quá dài dòng,
làm cho người làm bài mất nhiều thời gian.
3. Loại câu điền khuyết
Là những câu phát biểu, mệnh đề, định nghĩa....còn chừa lại chỗ trống để người làm
bài có thể điền vào. Loại câu này có 2 dạng là :

- Loại câu trắc nghiệm này gồm có 2 phần : phần gốc và phần lựa chọn. Phần gốc là
một câu hỏi hay một câu chưa hoàn tất. Phần lựa chọn gồm một số câu trả lời hay câu
bổ sung ý còn thiếu của phần gốc.
- Phần gốc phải đưa ra ý muốn hỏi một cách rõ ràng, tránh dùng từ ngữ dài dòng
khiến người làm bài không biết chọn đáp án nào cho phù hợp.
- Phần lựa chọn gồm 4 hoặc 5 câu trả lời, trong đó có một câu là đúng nhất, các câu
còn lại làm mồi nhử cũng phải hấp dẫn, để những người chưa học bài hay học chưa
kỹ khó phát hiện được phương án đúng.
Ví dụ : Nguyên lí I nhiệt động lực học có gì khác so với định luật bảo toàn động
lượng ?
A. Nguyên lí I nhiệt động lực học không có gì khác với định luật bảo toàn năng
lượng.
B. Nguyên lí I nhiệt động lực học là định luật bảo toàn năng lượng mở rộng ra cho
các quá trình có trao đổi nhiệt.
C. Nguyên lí I nhiệt động lực học là một định luật thực nghiệm mà ta không thể
chứng minh được.
D. Nguyên lí I nhiệt động lực học có điều “mới” hơn định luật bảo toàn năng
lượng ở chỗ nó khẳng định rằng nội năng của một hệ chỉ phụ thuộc một số ít
tham số mà ta gọi là thông số trạng thái của hệ.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

♣ Ở câu trắc nghiệm này, người học phải biết được nguyên lí I nhiệt động lực học
không có gì khác với định luật bảo toàn năng lượng, mà nó chính là sự mở rộng của
định luật bảo toàn này. Ngoài ra, người học còn phải biết nguyên lí I nhiệt động lực



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

 Phần dẫn phải mang ý nghĩa trọn vẹn, phần trả lời phải ngắn gọn.
 Nên có 4 hay 5 lựa chọn cho mỗi câu hỏi.
 Tránh dùng hai từ “không” liên tiếp trong một câu hỏi.
 Tránh dùng câu dẫn dắt mang tính phủ định, nếu dùng thì phải chú ý gạch dưới
hoặc tô đậm từ “không”.
 Không nên dùng các câu hỏi không thể xảy ra trong thực tế.
 Phải đảm bảo sao cho câu trả lời đúng là câu rõ ràng và đúng nhất.
 Phải đảm bảo các câu dẫn và các câu trả lời là đúng cấu trúc ngữ pháp.
 Soạn các câu mồi nhử cũng phải hấp dẫn như đáp án đúng.
 Không nên dùng loại câu trả lời “ không một câu nào đúng cả ”.
 Soạn các phương án trả lời có độ dài và văn phong giống nhau.
 Không nên dùng mồi nhử để gài bẫy học sinh, mục đích của mồi nhử là phân
loại học sinh.
 Có bốn bước phải làm khi soạn mồi nhử :
Bước 1 : Ra các câu hỏi mở về nội dung dự định trắc nghiệm để học sinh tự viết câu
trả lời.
Bước 2 : Thu các bản trả lời của học sinh, loại bỏ câu trả lời đúng, giữ lại câu trả lời
sai.
Bước 3 : Thống kê phân loại các câu trả lời sai và ghi lại tần số xuất hiện từng loại
câu sai.
Bước 4 : Ưu tiên chọn những câu sai làm mồi nhử.
IV. Quy trình soạn thảo một bài trắc nghiệm khách quan
Thông thường khi soạn thảo một bài trắc nghiệm thì người soạn trắc nghiệm
phải biết mình muốn kiểm tra nội dung nào của môn học ? Mục tiêu của bài trắc

bài trắc nghiệm của chúng ta cần hướng vào những phần mà học sinh nếu không học
kỹ sẽ dễ mắc sai lầm.
- Tóm lại có nhiều mục đích khác nhau do đó người soạn đề trắc nghiệm phải biết
được mục đích bài trắc nghiệm của mình từ đó mà soạn nội dung bài trắc nghiệm cho
phù hợp từ đó bài trắc nghiệm mới có tính giá trị.
2. Phân tích nội dung môn học và xác định mục tiêu học tập :
2.1 Phân tích nội dung môn học :
- Phân tích nội dung môn học chủ yếu là xem xét và phân biệt 4 loại học tập. Bao
gồm : những thông tin mang tính chất sự kiện mà người học phải nhớ hay nhận ra;
những khái niệm và ý tưởng mà người học phải giải thích hay minh hoạ; những ý
tưởng phức tạp cần được giải thích hay giải nghĩa; những thông tin, ý tưởng và kỹ
năng cần được ứng dụng hay chuyển dịch sang một tình huống hay hoàn cảnh mới.
Chú ý : Trong việc phân tích nội dung một phần nào đó của môn học ta có thể đảo
ngược thứ tự các loại học tập nói trên đây như sau : tìm ra những điều khái quát, ý
tưởng cốt lõi của môn học trước, nội dung còn lại là minh hoạ và giải thích cho ý
tưởng cốt lõi đó.
SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

- Như vậy các bước phân tích nội dung môn học là :
Bước 1 : tìm ra những ý tưởng chính yếu của môn học ấy.
Bước 2 : lựa chọn từ ngữ, nhóm từ, ký hiệu mà người học phải giải nghĩa được. Tìm
ra các khái niệm quan trọng trong nội dung môn học để đem ra khảo sát.
Bước 3 : phân loại hai hạng thông tin được trình bày trong môn học : thứ nhất là
những thông tin nhằm mục đích giải nghĩa hay minh hoạ, thứ hai là những khái luận
quan trọng của môn học. Người soạn trắc nghiệm cần phải biết những thông tin nào

Khó đo lường.

Dễ đo lường.

Khái quát về nội dung.

Cụ thể về nội dung.

b. Những thuận lợi khi xác định mục tiêu học tập
SVTH: Nguyễn Thanh Loan


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Cô Lương Hạnh Hoa

- Giúp cho người soạn trắc nghiệm biết được những mục tiêu nào quan trọng và
không quan trọng của môn học, hoặc của một phần kiến thức nào đó, từ đó giúp
người soạn phân bố câu trắc nghiệm cho phù hợp.
- Tạo dễ dàng cho việc kiểm tra và chấm điểm công bằng.
- Mục tiêu cho phép người đánh giá xác định hoạt động giảng dạy và tài liệu học tập
nào có hiệu quả.
- Cho thấy rõ ràng sự đối chiếu kết quả đào tạo giữa nội dung giáo viên truyền đạt và
nội dung học sinh tiếp thu.
- Khuyến khích học sinh hoàn thiện những tri thức còn thiếu, vì muốn đạt được
những mục tiêu cao hơn thì phải biết những kiến thức cơ bản trước.
c. Đặc điểm của mục tiêu
- Mục tiêu cần phải cụ thể, phải nêu ra kết quả mà nó đạt được.
- Mục tiêu phải có thể đo được.
- Mục tiêu cần phải đạt được, tránh nêu ra những mục tiêu xa vời, mơ hồ, không thể

định luật đó, nhưng để chứng tỏ sự thông hiểu, người học phải giải thích được ý
nghĩa của những đại lượng, những mối liên hệ trong định luật. Sự thông hiểu bao
gồm : sự hiểu biết các khái niệm đơn giản và các ý tưởng phức tạp.
Bài trắc nghiệm nhằm đo lường sự thông hiểu các khái niệm, hay ý nghĩa đơn giản
phải được diễn tả bằng các ngôn ngữ khác với những gì viết trong sách vở. Ngoài ra
người học có thể phải đưa ra những ý kiến, thí dụ để minh hoạ thêm cho kiến thức đó
nhằm chứng tỏ sự thông hiểu của mình.
Sự thông hiểu các ý tưởng phức tạp bao gồm các nguyên lý , các mối liên hệ, những
điều khái quát hoá, trừu tượng hoá, mục tiêu loại này đòi hỏi người học phải có
những suy luận phức tạp để tìm ra ý đúng. Thông thường đòi hỏi người học phải giải
thích, phân biệt dữ kiện, lựa chọn thông tin cần thiết, suy diễn để tìm ra kết quả.
+ Áp dụng : khả năng này đòi hỏi người học phải biết vận dụng kiến thức, sử dụng
phương pháp , định luật hay ý tưởng để giải quyết vấn đề. Mục tiêu loại này đòi hỏi
người học phải biết di chuyển kiến thức quen thuộc sang một hoàn cảnh mới, và
quyết định dùng nguyên lý, định luật nào cần áp dụng để giải quyết vấn đề.
+ Phân tích : là khả năng chia thông tin ra thành các phần thông tin nhỏ sao cho có
thể hiểu được cấu trúc, tổ chức của nó, và thiết lập mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
giữa chúng. Yêu cầu chỉ ra được bộ phận cấu thành, xác định được mối liên hệ giữa
các bộ phận, và hiểu được nguyên lý, cấu trúc của các bộ phận cấu thành. Đây là mức
độ cao hơn vận dụng vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu về cả nội dung lẫn hình thái cấu trúc
của thông tin, sự vật hiện tượng.
+ Tổng hợp : Sắp xếp, thiết kế lại thông tin, các bộ phận từ các nguồn tài liệu khác
nhau và trên cơ sở đó tạo lập nên một hình mẫu mới. Yêu cầu tạo ra được một chủ đề
mới, một vấn đề mới, một mạng lưới các quan hệ trừu tượng. Kết quả học tập trong
lĩnh vực này nhấn mạnh vào các hành vi sáng tạo, đặc biệt là trong việc hình thành
các mô hình hoặc cấu trúc mới.

SVTH: Nguyễn Thanh Loan



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status