NÔNG NGHIỆP TRONG HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) - Pdf 35

NÔNG NGHIỆP
TRONG HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)

1


LỜI NÓI ĐẦU
Thông tin chuyên đề "Nông nghiệp trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình Dương
(TPP)" là bản lược dịch báo cáo nghiên cứu kinh tế "Agriculture in the Trans - Pacific
Partnership" do các nhà nghiên cứu kinh tế của Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông
nghiệp Mỹ (ERS/USDA) biên soạn và ấn hành cuối năm 2014.
Tài liệu đánh giá những ảnh hưởng có thể có của việc bãi bỏ tất cả các loại thuế quan và
các hạn ngạch nhập khẩu chịu thuế (TRQs) đối với các mặt hàng nông nghiệp và phi nông
nghiệp theo hiệp định TPP đến nền nông nghiệp khu vực vào năm 2025 - ngày được giả
thiết là kết thúc việc thực hiện hiệp ước - so với các trị số ranh giới của năm 2025 mà
không có TPP. Loại bỏ thuế quan chỉ là một trong nhiều mục tiêu của đàm phán TPP,
song là mục tiêu quan trọng đối với mậu dịch nông sản. Giá trị của mậu dịch nông sản
giữa các nước trong khu vực vào năm 2025 theo kịch bản bãi bỏ tất cả thuế và hạn ngạch
nhập khẩu chịu thuế (TRQs) được đánh giá là sẽ tăng 6%, tức là tăng 8,5 tỉ USD (theo giá
trị đồng đôla Mỹ năm 2007) so với các trị số ranh giới. Xuất khẩu nông sản của Mỹ đến
khu vực này sẽ tăng 5%, tức là tăng khoảng 3 tỉ USD, và nhập khẩu nông sản vào Mỹ từ
khu vực này vào năm 2025 sẽ tăng 2%, tức là tăng 1 tỉ USD so với các trị số ranh giới.
Do phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận, mô hình tính toán, và quan điểm của các tác
giả nên các kết luận rút ra mang tính chất tham khảo để nghiên cứu. Tài liệu mang tính
chất tham khảo khái quát chung.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Ban biên tập

2


TPP nhằm mục đích xúc tiến thương mại và đầu tư vào dịch vụ và các sản phẩm có tính
chất đổi mới.
Năm điểm đặc trưng này đang được triển khai chi tiết trong 29 chương của hiệp định.
Các chương đề cập tới các vấn đề, bao gồm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối
với mậu dịch hàng hóa và dịch vụ, lao động và môi trường, bảo hộ đầu tư, quyền sở hữu
trí tuệ, và dịch vụ tài chính và viễn thông. Nông nghiệp được đề cập trong nhiều chương
của hiệp định này. Chương tiếp cận thị trường qui định giảm hoặc loại bỏ các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên TPP, bao gồm cả các hàng rào đối
với mậu dịch nông sản. Chương này cũng đề cập an ninh lương thực thực phẩm và cạnh
tranh xuất khẩu nông sản. Các chương khác cũng có thể liên quan đáng kể đến thuế quan
nông sản, môi trường, quyền sở hữu trí tuệ, qui tắc xuất xứ, các tiêu chuẩn vệ sinh và
kiểm dịch thực vật (SPS) và các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại.
Bảng 1. Dân số, thu nhập, và mậu dịch nông sản của các nước TPP
Tên
nước

Năm 2012
Dân số
(Triệu
người)

GDP (Tỉ
USD)

GDP
đầu
người
(USD)

Xuất khẩu nông sản

32 10.716,3
4.882,7
Brunei
0,4
17,0 41.124
1,3
0,9
72
154,9
108,0
Canađa
34,9 1.821,4 52.220 39.635,9 25.380,7
64 30.717,4 21.628,5
Chilê
17,5
269,9 15.454 10.005,6
4.230,6
42
5.131,5
1.004,8
Nhật Bản
127,6 5.960,0 46.723
3.377.0
927.3
27 62.142,6 30.680,1
Malaixia
29,2
305,0 10.431 28.348,1
6.947,7
25 15.347,6

42 102.906,1 48.681,1
Việt Nam
88,8
155,8 1.755 12.042,5
2.476,4
21
9.285,5
3.276,1
Tổng
795,5 28.124,9 35.354 312.157,2 135.478,3
43 279.408,9 143.236,5
(Ghi chú: Mậu dịch thế giới bao gồm cả mậu dịch với các đối tác TPP)

Tài liệu này sử dụng mô hình cân bằng tính toán tổng quát (CGE), đa quốc gia, trọng
điểm nông nghiệp để phân tích những ảnh hưởng có thể có của việc bãi bỏ thuế quan và
hạn ngạch nhập khẩu chịu thuế (TRQs) giữa 11 trong số 12 nước thành viên TPP. Hai
kịch bản đã được mô hình hóa để phản ánh những diễn biến trong thời kỳ từ năm 2014
đến năm 2025 - là thời kỳ được giả thiết để thực hiện TPP. Kịch bản thứ nhất là "kịch bản
ranh giới", mô hình hóa các dự báo trong thời kỳ 2014-2025 về tăng trưởng GDP thực tế,
tăng cung vốn và lao động, những thay đổi về dân số và cơ cấu bữa ăn, và việc thực hiện
hệ thống các hiệp định ưu đãi thương mại (PTAs) và những cải cách thuế quan đơn
phương đã cam kết trong khu vực. Một kịch bản giả định và cách điệu hóa TPP có bổ
sung thêm việc bãi bỏ hoàn toàn các thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu chịu thuế (TRQs)
đối với các mặt hàng nông sản và phi nông sản trong nội khối TPP vào hệ thống các hiệp
định thương mại. Điều quan trọng là phải tính đến định nghĩa hẹp của kịch bản TPP trong
phân tích này. Phạm vi đàm phán TPP còn đi xa hơn cắt bỏ thuế quan; nó bao trùm tất cả
các khía cạnh của mối quan hệ thương mại giữa các nước thành viên TPP. Trong số các
chủ đề khác đang đàm phán, có thể ảnh hưởng tới mậu dịch nông sản là những qui định về
đầu tư, kinh doanh dịch vụ, và các hàng rào phi thuế quan đối với mậu dịch (xem Hộp 1).
Bản phân tích này đề cập những ảnh hưởng của việc bãi bỏ thuế quan và hạn ngạch chịu

51


quốc tế (UNCTAD, 2010).(1) Các biện pháp phi thuế quan có thể bao gồm các biện
pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật (SPS), các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
(TBTs), kiểm định hàng hóa thông quan, kiểm soát giá và chất lượng, các loại thuế, trợ
cấp trong nước, những hạn chế phân phối, và các qui định xuất xứ. Trong số các biện
pháp này, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật thuộc diện những biện pháp
quan trọng nhất đối với mậu dịch nông sản và là trọng tâm của thảo luận này.
Theo Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về áp dụng các biện pháp
Vệ sinh và Kiểm dịch Thực vật (1995), các nước có thể thi hành các biện pháp để bảo
vệ sức khỏe của con người, động vật và thực vật chống lại các mối đe dọa nảy sinh từ
các chất phụ gia, các chất độc, sinh vật gây hại, và các mầm bệnh trong lương thực
thực phẩm, đồ uống và thức ăn chăn nuôi, chỉ cần có căn cứ khoa học, được thực hiện
bởi việc đánh giá rủi ro một cách thích hợp, và không phân biệt đối xử các nhà sản xuất
nước ngoài.(2) Trong khi phần lớn các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật (SPS)
đề cập tới các mối quan ngại hợp pháp, thì một số nước được các đối tác thương mại
của họ nhận ra rằng đang duy trì các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật không cân
xứng với các mức độ rủi ro trên thực tế. Do chúng có thể cản trở hoặc thậm chí loại trừ
các dòng thương mại quốc tế, một số biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật đã dấy
lên quan ngại rằng chúng đang được áp dụng đơn giản chỉ để bảo hộ các nhà sản xuất
trong nước khỏi bị hàng nhập khẩu cạnh tranh.
Thật không may, rất khó đánh giá tác động toàn diện cuả các biện pháp vệ sinh và
kiểm dịch thực vật (SPS) và các biện pháp phi thuế quan (NTMs) khác đến mậu dịch.
Tài liệu về đánh giá và loại bỏ những ảnh hưởng hạn chế mậu dịch của các biện pháp
phi thuế quan rất phong phú, song trong thực tiễn, các chiến lược đánh giá thích hợp
vẫn khó nắm bắt. Khác với thuế quan (thường minh bạch rõ ràng hơn), các biện pháp
vệ sinh và kiểm dịch thực vật (SPS) không phải bao giờ cũng có thể định lượng, khác
biệt đáng kể tùy theo biện pháp, và có thể dẫn đến những mức độ và các kiểu chi phí
khác nhau, phụ thuộc vào bản thân của từng biện pháp và quốc gia mà nó gây ảnh

gia cầm do nguy cơ dịch cúm gia cầm và các loại virut khác
mà không phù hợp với những nguyên tắc chỉ đạo của OIE.
Chỉ áp dụng những hạn chế đối với những nguồn bệnh có
nguy cơ rủi ro cao, và việc khu vực hóa các lệnh cấm được
khuyến cáo.
Cấm nội tạng
Quan ngại dấy lên khi Việt Nam cấm nhập khẩu nội tạng do
lo ngại về an toàn thực phẩm mà không có khai báo với
WTO hoặc cung cấp luận chứng khoa học về lệnh cấm.
Những yêu cầu về an Các nước đã dấy lên mối quan ngại đối với các thanh kiểm
toàn lương thực thực tra, các giấy chứng nhận và các yêu cầu xuất khẩu khác theo
phẩm
Đạo luật Nâng cao An toàn Lương thực Thực phẩm 2009
của Hoa Kỳ.
Trong số những mục tiêu của đàm phán TPP là những điều khoản tìm cách đề cập một
số những bất đồng ý kiến nổi bật về vệ sinh và kiểm dịch thực vật (SPS) trong khu vực
và củng cố các luật lệ về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật vượt ra ngoài giới
hạn của các luật lệ của WTO. Điểm xuất phát để giải quyêt nhiều trong số những bất
đồng này trong phạm vi WTO là mỗi nước phải nêu lên mối quan ngại thương mại đặc
trưng về các biện pháp của nước khác trong phạm vi Ủy ban Vệ sinh và Kiểm dịch
Thực vật của WTO. Trong Bảng 2 nêu tóm tắt mẫu một số quan ngại chính về mậu
dịch có đặc trưng Vệ sinh và Kiểm dịch thực vật (SPS) gây vướng mắc giữa các nước
TPP.(3) Những biện pháp SPS trong những quan ngại mậu dịch này được các nhà xuất
khẩu xem xét cẩn thận bởi chúng đang quá mức so với những quan ngại rủi ro thực tế,
do đó không cần thiết phải hạn chế mậu dịch. Mặc dù công trình nghiên cứu này tập
trung vào việc dỡ bỏ thuế quan, việc giải quyết những mối quan ngại về các biện pháp
SPS đặc trưng và những biện pháp phi thuế quan khác có thể dẫn tới tiếp tục gia tăng
thêm mậu dịch nông sản nội khối TPP.
(1)
Định nghĩa này bao gồm một tập hợp các biện pháp rộng hơn thuật ngữ thường

phân loại là nước có mức thu nhập trung bình thấp.
Hoạt động kinh tế trong khu vực TPP được dự báo sẽ phục hồi từ các ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, với GDP thực tế được kỳ vọng sẽ tăng trưởng với tốc
độ bình quân hàng năm trong khoảng 2,6 - 4,5% ở các nước thành viên có mức thu nhập
cao nhất, và trong khoảng 3,6 - 6,6% ở các nước thành viên có mức thu nhập trung bình
trong thời kỳ 2014-25 (USDA-ERS,2012) (xem Bảng 3). Tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản
được dự báo sẽ tăng trưởng dương, song tương đối chậm - chủ yếu do dự báo suy giảm
qui mô dân số và lực lượng lao động của nước này. Các mức thu nhập thực tế tính theo
đầu người cũng được dự báo sẽ tăng ở tất cả các nước thành viên TPP trong thời kỳ 201425, đặc biệt là ở các nước có mức thu nhập trung bình là Malaixia, Mêhicô, Pêru, và Việt
Nam.
Bảng 3. Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP thực tế và dân số ở các nước
thành viên TPP, kịch bản vạch ranh giới

Các nước có mức thu nhập cao
Ôxtrâylia
Canađa
Chilê
Nhật Bản
Niu Dilân
Singapore
Mỹ
Các nước có mức thu nhập trên trung
bình
Malaixia
Mêhicô
Pêru
Các nước có mức thu nhập trung bình
thấp
Việt Nam


0,90

6,58

0,84

Phản ánh các mức thu nhập trung bình và trên trung bình và độ thuần thục của cơ cấu
các bữa ăn của các nước thành viên TPP, gia tăng dân số sẽ là động lực chủ yếu của tăng
trưởng thực tế 10,4% của nhu cầu lương thực thực phẩm trong khu vực trong thời kỳ
2014-25 theo kịch bản vạch ranh giới. Tốc độ gia tăng mức tiêu dùng lương thực thực
phẩm tính theo đầu người sẽ vừa phải, do ở hầu hết các nước TPP, mức tiêu dùng hàng
ngày tính theo đầu người đã đạt sát hoặc vượt mốc 3.000 calo (ngoại trừ Pêru (2.563),
Việt Nam (2.690), và Nhật bản (2.723)) (UN-FAO, 2013).
Trong khi tổng lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ tính theo đầu người không được kỳ
vọng sẽ tăng đáng kể, tăng trưởng thu nhập và những thay đổi về nhân khẩu học/xã hội sẽ
dẫn tới một số thay thế trong thành phần cấu tạo của rổ tiêu dùng lương thực thực phẩm
trong thời kỳ vạch ranh giới (xem Bảng 4). Mô hình sử dụng trong công trình nghiên cứu
này điều chỉnh các trị tham số, phản ánh phản ứng của nhu cầu tiêu dùng đối với sự gia
7


tăng mức thu nhập sao cho kịch bản vạch ranh giới mô phỏng những thay đổi trong các
mẫu hình tiêu dùng ở khu vực TPP trong thời kỳ 2014-25 như đã được dự báo bởi các
nguồn khác nhau (bao gồm các dự báo vạch ranh giới của Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế
(ERS), các báo cáo của Mạng Thông tin Nông nghiệp Toàn cầu (GAIN) của Cơ quan
Nông nghiệp Nước ngoài (FAS) của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), và Tổ chức Nông
nghiệp và Lương thực (FAO) của Liên Hợp Quốc (UN)). Những nguồn này dự báo lượng
tiêu dùng ngũ cốc trực tiếp tính theo đầu người của hộ gia đình sẽ suy giảm ở nhiều nước
TPP trong thời kỳ 2014-25, mặc dù việc gia tăng nhu cầu đối với thịt và thực phẩm chế
biến sẽ dẫn tới gia tăng mức tiêu dùng ngũ cốc gián tiếp trong khu vực, được dùng làm

hicô Dilân ru
pore
Nam
-0,4
1,8
0,7 -0,3
-0,8 -0,5
-0,5
7,2
-0,4 -0,4 -0,9
3,8

5,7

4,8

4,4

4,5

2,5

3,3

3,3

1,5

4,9


8,6

12,1
10,6
20,5

1,6
0,4
0,2

14,4
10,8
17,7

10,9
11,4
13,3

1,3
2,4
9,0

12,6
9,2
17,3

3,1
4,8
7,0


19,5

24,3

49,3

16,5

42,1

35,8

27,5

51,7

18,6

20,6

76,2

Ghi chú: Mức tiêu dùng tính theo đầu người là nói đến nhu cầu trực tiếp của hộ gia đình tư nhân đối
với thành phẩm.

Các xu hướng tiêu dùng miêu tả trong kịch bản vạch ranh giới cũng phản ánh rằng tăng
trưởng thu nhập có liên quan tới tăng lượng tiêu dùng trái cây và rau ở các nước có mức
thu nhập thấp và trung bình (Hall et al., 2009) và ở các nước có mức thu nhập cao
(Pollack, 2001; Cook, 2011; Lalluka et al., 2007) do các yếu tố, bao gồm cả việc cải thiện
chất lượng và đa dạng sản phẩm tươi sống và những tác động của mức thu nhập cao đến

2014-25. Sự bao trùm của TPP lên các cam kết cải cách thuế quan hiện hành có nghĩa là
những tác động của TPP phải được đo lường theo khái niệm ảnh hưởng nhỏ, sau khi tính
toán tới những ảnh hưởng về mặt kinh tế của các Hiệp định Ưu đãi Thương mại hiện
hành. Ngoài ra, Mêhicô sẽ thực hiện đơn phương giảm thuế quan đối với một số mặt hàng
nông sản - những cải cách này được tính đến trong phần hợp thành của PTA của kịch bản
vạch ranh giới.
Các thuế suất song phương có tính tới ưu đãi thương mại có hiệu lực năm 2007. Tuy
nhiên kể từ đó, các nước thành viên TPP đã đàm phán thêm nhiều Hiệp định Ưu đãi
Thương mại (PTAs) giữa các nước này với nhau. Tính đến ngày 1-3-2014, các nước thành
viên TPP đã thông báo cho Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) biết về 29 Hiệp định
Ưu đãi Thương mại (PTAs) song phương và khu vực, trong đó áp dụng ưu đãi thuế quan
giữa ít nhất là hai nước thành viên TPP. Trong khi một số trong 29 hiệp định này, ở mức
độ nào đó, bị trùng lặp (ví dụ: Nhật Bản có Hiệp định Ưu đãi Thương mại khu vực với 10
nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, bao gồm Brunei
Darussalam, Cămpuchia, Inđônêxia, Lào, Malaixia, Myanmar, Philippin, Singapore, Thái
Lan và Việt Nam), song Nhật Bản cũng có các Hiệp định Ưu đãi Thương mại song
phương với bốn nước ASEAN, là một bộ phận của TPP, đó là Brunei, Malaixia,
Singapore, và Việt Nam), chúng hiện áp dụng thuế suất hải quan ưu đãi cho một bộ phận
ít nhất là 80 dòng thương mại song phương giữa các nước thành viên TPP. Trên 50% các
Hiệp định Ưu đãi Thương mại bắt đầu thực hiện sau năm 2007, trong khi 3/4 các hiệp
định này vẫn còn đang trải qua giai đoạn thực hiện cắt giảm một số dòng thuế quan.
TPP được kỳ vọng sẽ xây dựng trên các mạng lưới hiện hành các Hiệp định Ưu đãi
Thương mại song phương và khu vực của các nước thành viên. Để giải thích những cắt
giảm thuế quan đã được đàm phán trước đây, các tác giả đã xây dựng một cơ sở dữ liệu
các hiệp định thương mại nội khối TPP, lấy từ các bản liệt kê thuế quan có trong Cơ sở
Dữ liệu các Hiệp định Thương mại Khu vực của Tổ chức Thương mại Thế giới. Cơ sở dữ
liệu này được bổ sung bởi việc xây dựng các bản liệt kê thuế quan từ các phụ lục của một
số hiệp định thương mại. Cơ sở dữ liệu của các tác giả phản ánh những cắt giảm thuế quan
đã được đàm phán đối với trên 50 trong số 80 dòng thương mại nêu trong Bảng 5 (không
một dòng thương mại nào trong số 14 dòng thương mại giữa Brunei và các đối tác Hiệp

song không cắt giảm về zero (không). Những dòng thuế quan còn lại (13%) không được
đưa vào chương trình để cắt giảm trong thời kỳ 2014-2025, hoặc do chúng đã ở mức cuối
cùng đã được thỏa thuận trong các hiệp định ưu đãi thương mại của các nước đó, hoặc do
chúng đã được đưa ra khỏi diện cắt giảm do những nhạy cảm về chính trị hoặc kinh tế.
Bảng 5. Các dòng mậu dịch song phương được đề cập bởi các hiệp định ưu đãi
thương mại (PTAs); khởi đầu/kết thúc thực hiện
Tên báo
cáo
Ôxtrâylia
Brunei
Canađa
Chilê
Nhật Bản
Malaixia
Mêhicô
Niu Dilân
Pêru
Singapore
Mỹ
Việt nam
Tổng
PTAs

Ôxtrâylia

Brunei

Canađa

--2010/2025

4
10

Nhật Bản

Malaixia

2010/2025
2008/2026 1992/2010
2007/2022 2012/2016
--2008/2026
2008/2026 --2005/2015
2010/2025
2012/2027
2008/2026 1992/2010
2008/2026 1992/2018
7
7

Bảng 5. Các dòng mậu dịch song phương được đề cập bởi các hiệp định ưu đãi
10


thương mại (PTAs); khởi đầu/kết thúc thực hiện (tiếp theo)
Tên báo Mêhicô
Niu Dilân
Pêru
Singapore
Mỹ
Việt Nam

Niu Dilân
--2010/2025
2010/2025 6
Pêru
2012/2023
--2009/2025 2009/2025
6
Singapore
2010/2025 2009/2025 --2004/2014 1992/2010 9
Mỹ
1994/2008
2009/2025 2004/2014 --6
Việt Nam
2010/2025
1992/2010
--6
Tổng
5
6
6
9
6
6
80
PTAs
Ghi chú: Các ô để nền trắng biểu thị các Hiệp định Ưu đãi Thương mại (PTAs) (đề cập hàng hóa) và
các Hiệp định Hội Nhập Kinh tế (đề cập dịch vụ); các ô để nền xám chỉ biểu thị PTAs.

Những cắt giảm thuế quan, mà sẽ vẫn còn được thực thi theo các Hiệp định ưu đãi
thương mại (PTAs) hiện hành trong thời kỳ vạch ranh giới là phần cắt giảm lớn nhất đối



Bảng 6. Tăng trưởng giá trị mậu dịch nông sản nội khối TPP theo từng nước
trong kịch bản vạch ranh giới 2014-25
Ôxtrâylia

Canađa

Nhập khẩu nông sản từ các nước đối tác TPP
Giá trị cơ sở, 2014 (triệu
4.410
17.523
USD)
Phần trăm thay đổi nhờ
13,6
4,3
tăng trưởng
Phần trăm thay đổi nhờ
0,0
0,0
PTAs
Giá trị năm 2025 (triệu
5.013
18,271
USD)
Xuất khẩu nông sản sang các nước đối tác TPP
Giá trị cơ sở, 2014 (triệu
12.385
24.881
USD)

8,7

12,2

17,4

0,1

0,1

0,1

-0,2

804

41.118

2.915

14.296

5.942

1.055

4.188

13.106


Nhập khẩu nông sản từ các nước đối tác TPP
Giá trị cơ sở, 2014 (triệu
2.013
904
2.580
USD)
Phần trăm thay đổi nhờ
6,3
17,2
15,0
tăng trưởng
Phần trăm thay đổi nhờ
0,1
1,5
0,1
PTAs
Giá trị năm 2025 (triệu
2.141
1.074
2.968
USD)
Xuất khẩu nông sản sang các nước đối tác TPP
Giá trị cơ sở, 2014 (triệu
7.054
1.446
1.222
USD)
Phần trăm thay đổi nhờ
13,5
10,8


2,2

0,1

44.846

2.100 135.545

48.983

3.763 124.026

7,1

13,3

9,2

-0,1

0,5

0,1

52.395

4.284 135.545

Ghi chú: TPP là nói đến Đối tác xuyên Thái Bình Dương; PTAs là Các Hiệp định Ưu đãi Thương

Bảng 7. Thay đổi giá trị mậu dịch nông sản nội khối TPP tính theo mặt hàng
trong kịch bản vạch ranh giới, 2014-25
Mặt hàng

Gạo
Lúa mì
Ngô
Ngũ cốc khác
Rau/Quả
Hạt có dầu
Mía/Cải đường
Sợi
Cây trồng khác

Lợn
Gia cầm
Động vật khác
Thịt bò
Thịt lợn
Thịt gia cầm
Sản phẩm động vật
khác
Đường

Mậu dịch nội khối
TPP năm 2014

Thay đổi giá trị mậu
dịch nội khối TPP,
2014-25

933
3.211
87
1.171
-128
1.167
13

18

Phần trăm thay đổi
giá trị mậu dịch nội
khối TPP, 2014-25
Phần trăm (%)
8,9
8,6
5,4
4.1
16,8
0,6
-1,2
17,1
12,2
4,5
8,6
21,4
19,9
19,6
16,6
2,7


2,6
6,8
14,2
7,4
13,5
10,5
7,0
9,3

Ghi chú: TPP là nói đến Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Giá trị cơ sở năm 2014 là các kết quả mô
phỏng từ cập nhật của mô hình. Tất cả các giá trị đều tính theo giá trị đồng đôla Mỹ năm 2007.

Tính theo mặt hàng, các tốc độ tăng trưởng trong mậu dịch nông sản nội khối TPP theo
kịch bản vạch ranh giới sẽ cao nhất đối với thịt gia cầm, "động vật khác", thịt bò (bao gồm
cả thịt cừu), sợi, thịt lợn, và trái cây và rau (xem bảng 7). Về mặt giá trị, tăng trưởng lớn
nhất đối với "thực phẩm khác" (là hạng mục tập hợp các lương thực thực phẩm chế biến
và thức ăn chăn nuôi chế biến), trái cây và rau, thịt bò, và thịt lợn.
Sản xuất nông nghiệp ở các nước TPP sẽ phản ứng trước những diễn biến của phía cầu
và phía cung được dự báo sẽ diễn ra trong thời kỳ 2014-25. Những động lực thúc đẩy phía
cầu trong kịch bản vạch ranh giới gồm có gia tăng dân số, tăng trưởng thu nhập và những
thay đổi dẫn đến tăng nhu cầu tiêu dùng lương thực thực phẩm, và những tác động của giá
nhập khẩu do việc thực thi cắt giảm thuế quan trong các hiệp định ưu đãi thương mại hiện
hành. Những động lực thúc đẩy phía cung trong kịch bản vạch ranh giới bao gồm gia tăng
khả năng sản xuất và khả năng lao động và vốn của các nước. Gia tăng cung ứng lao động
và vốn sẽ dẫn tới những thay đổi trong yếu tố giá thành tương đối trong phạm vi một nước
và ở các nước. Một diễn biến quan trọng sẽ là hiệu quả của dự báo suy giảm nguồn cung
lao động không có chuyên môn kỹ thuật so với lao động lành nghề ở tất cả các nước TPP.
Ở Nhật Bản, sự suy giảm tuyệt đối về qui mô lực lượng lao động không có chuyên môn
kỹ thuật sẽ dẫn tới mức lương tương đối cao và bỏ phí mất tính cạnh tranh ở những lĩnh


Mêhicô


Bản
Giá trị sản lượng năm 2014, triệu USD
Ngũ cốc
9.887
9.541
2.474
59.518
1.274
Rau/Quả
7.244
3.559
4.731
39.429
604
Dầu và mỡ
3.888
9.194
611
7.198
32.078
Thịt
38.807
35.768
6.178
57.666
3.501

15,6
39,2
-9,4
7,9
Thịt
13,2
9,0
47,9
-7,2
23,7
Sản phẩm sữa
17,1
7,8
25,9
-3,4
29,7
Nông sản khác
17,1
16,2
34,0
-3,6
22,8

5.551
11.612
3.123
19.289
14.652
76.968
131.197

280
46.558
449
Thịt
12.027
6.803
600
283.768
3.209
Sản phẩm sữa
17.748
3.628
401
132.504
489
Nông sản khác
11.380
21.078
3.094
550.741
15.310
Tổng nông sản
47.032
40.122
4.547 1.157.105
31.902
Phần trăm thay đổi khối lượng trong kịch bản vạch ranh giới, 2014-25
Ngũ cốc
14,5
20,4

tỉ lệ về giá trị sản lượngị của những mặt hàng đó trong năm 2014 ở mỗi loại tập hợp mặt hàng.

III. Những ảnh hưởng của việc loại bỏ thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu chịu thuế
(TRQs) trong trong phạm vi TPP vào năm 2025
Kịch bản giả thuyết và cách điệu hóa TPP loại bỏ tất cả các loại thuế quan và hạn ngạch
nhập khẩu chịu thuế (TRQs) nông nghiệp và phi nông nghiệp vẫn còn tồn tại trong nội bộ
TPP.
3.1. Ảnh hưởng tới GDP thực tế
Những khác biệt về GDP thực tế vào năm 2025 với các nước thành viên TPP so với kịch
bản vạch ranh giới được nêu trong Bảng 9. Việc loại bỏ thuế quan và hạn ngạch nhập
khẩu chịu thuế trong kịch bản TPP dẫn đến những ảnh hưởng tối thiểu ở tầm kinh tế vĩ
15


mô, với những tác động bằng không (zero) hoặc dương tính nhỏ đến GDP thực tế của các
nước thành viên. Mức ảnh hưởng lớn nhất tới kinh tế vĩ mô của TPP, tính bằng phần trăm
(%), sẽ xảy ra ở Việt Nam, nơi GDP thực tế sẽ tăng 0,10% vào năm 2015 với việc thực thi
TPP so với kịch bản vạch ranh giới. Những mức tăng nhỏ về GDP cũng sẽ diễn ra đối với
Nhật Bản (0,02%), và Niu Dilân, Malaixia, và Mêhicô (tất cả đều tăng 0,01%). TPP được
dự báo sẽ không có ảnh hưởng vừa phải nào đến GDP thực tế ở bất kỳ nước thành viên
nào khác của TPP.
Bảng 9. Phần trăm khác biệt về GDP thực tế vào năm 2025 theo kịch bản
giả thuyết TPP (so với kịch bản vạch ranh giới)
Các nước có thu nhập cao
Ôxtrâylia
Canađa
Chilê
Nhật Bản
Niu Dilân
Singapore

kinh tế lớn nhất TPP, là Mỹ và Nhật Bản, chiếm phần lớn tổng mức gia tăng mậu dịch của
cả khối. Mỹ sẽ chiếm khoảng 1/3 tổng mức gia tăng xuất khẩu nông sản nội khối - giá trị
xuất khẩu nông sản Mỹ sang các đối tác TPP trong năm 2015 ước tính tăng 5% (+2,8 tỉ
USD) theo kịch bản TPP so với kịch bản vạch ranh giới. Nhật Bản sẽ chiếm xấp xỉ 70%
tổng mức tăng nhập khẩu nông sản nội khối - giá trị nhập khẩu nông sản vào Nhật Bản từ
các đối tác TPP vào năm 2025 được kỳ vọng sẽ tăng 14% (+5,8 tỉ USD) so với kịch bản
vạch ranh giới (xem Bảng 11).
Bảng 10. Ảnh hưởng của kịch bản TPP tới giá trị xuất khẩu nông sản sang
các đối tác TPP vào năm 2025
Ôxtrây Cana
Chi
Nhật
Ma

Niu

Singa
lia
đa

Bản laixia
hicô
Dilân
ru
pore
Xuất khẩu năm 2025 sang đối tác TPP theo kịch bản vạch ranh giới (triệu USD)
Ngũ
399
2.445
217


Việt
Nam

Tổng

9.582

142

12.869

5.906

387

17.061

5.030

24

11.297


dầu
&SP
Thịt
SP
sữa

144

9.094
1.800

64
2

27.550
6.627

5.000

11.729

4.070

914

1.803

7.139

2.652

1.059

1.130

20.982

các đối tác TPP vào năm 2025 (tiếp theo)
Ôxtrây Cana Chi Nhật
Ma

Niu

Singa Mỹ
lia
đa

Bản laixia hicô Dilân
ru
pore
Phần trăm thay đổi giá trị năm 2025 do có TPP so với kịch bản vạch ranh giới (%)
Ngũ cốc
40,2
3,0
0,0
5,4
-5,4
6,2
1,6
-6,3 -16,6
6,9
Rau/
4,6
7,2
1,7
9,6
0,3

9,3
2,2
0,9
7,9
7,0
-0,2
3,6
6,2
16,7
1,6
khác
Tổng
19,2
3,7
2,0
8,4
3,9
0,7 12,9
5,3
15,0
5,4
N.sản

Việt
Nam

Tổng

59,1
0,1

Mỹ
lia
đa

Bản
laixia
hicô
Dilân
ru
pore
Mức thay đổi giá trị năm 2025 do có TPP so với kịch bản vạch ranh giới (triệu USD)
Ngũ
161
73
0
0
0
4
0
0
0
664
cốc
Rau/
19
104
31
2
0
0

68
24
1
12
8
523
0
12
580
sữa
N.sản
466
254
38
73
126
-14
95
65
188
326
khác
Tổng
2.611 1.007
142
83
177
99 1.039
85
204 2.827


8.548

Bảng 11. Ảnh hưởng của kịch bản TPP tới giá trị nhập khẩu nông sản từ
các đối tác TPP vào năm 2025
Ôxtrây Cana
Chi
Nhật
Ma

Niu

Singa
lia
đa

Bản
laixia
hicô
Dilân
ru
pore
Nhập khẩu năm 2025 từ đối tác TPP theo kịch bản vạch ranh giới (triệu USD)
Ngũ
33
610 362
5.983
331
3.181
60


89

17.061


quả
Hạtcó
dầu
&SP
Thịt
SP
sữa
N.sản
khác
Tổng
N.sản

363

1.015

42

4.080

259

2.291


221
89

30
55

559
547

8.134
914

256
301

27.550
6.627

3.071

9.765

255

15.170

1.140

4.019


44.846

2.100

135.545

Bảng 11. Ảnh hưởng của kịch bản TPP tới giá trị nhập khẩu nông sản từ
các đối tác TPP vào năm 2025 (tiếp theo)
Ôxtrây
lia

Cana
đa

Chi


Nhậ
Ma

Niu

Sing Mỹ Việt
t
laixia hicô
Dilâ
ru
a
Nam
Bản

0,0
0,4 11,5
1,6 0,4
15,2
dầu
&SP
Thịt
2,5
16,4
0,6 23,9
-0,5
1,4
2,7
1,1
0,1 3,0
29,7
SP sữa
0,6
65,3
1,1 45,1
0,1
17,1
2,3 16,7
1,8 20,
4,9
5
N.sản
0,5
0,3
1,0

các đối tác TPP vào năm 2025 (tiếp theo)
Ôxtrây Cana Chi Nhật
Ma

Niu

Singa Mỹ
Việt
lia
đa

Bản laixia hicô Dilân
ru
pore
Nam
Mức thay đổi giá trị năm 2025 do có TPP so với kịch bản vạch ranh giới (triệu USD)
Ngũ
1
2
2
951
15
-4
1
1
2
4
10
cốc
Rau/

-1
41
8
0
0
247
76
SP
3
367
0
804
1
187
2
9
10
187
15
sữa
N.sản
1
26
3
918
171
8
16
9
9


nhất là đối với thịt bò (bao gồm cả thịt cừu), "thực phẩm khác" (nó bao gồm lương thực
thực phẩm chế biến và thức ăn chăn nuôi), và thịt gia cầm; mặc dù tốc độ tăng trưởng của
chúng là thấp hơn, những mặt hàng này có giá trị khởi đầu lớn trong mậu dịch nội khối
TPP, vì vậy ngay cả một tỉ lệ phần trăm gia tăng nhỏ cũng chuyển thành mức gia tăng
tuyệt đối tương đối lớn về giá trị mậu dịch của chúng (xem Bảng 12).
Mức gia tăng mậu dịch thịt khoảng 3,7 tỉ USD sẽ chiếm 43% tổng mức gia tăng giá trị
mậu dịch nội khối TPP vào năm 2025, phần lớn là nhờ gia tăng mậu dịch thịt của
Ôxtrâylia, Mỹ, Canađa, và Niu Dilân ("thịt" ở đây bao gồm bò, lợn, gia cầm, thịt bò, cừu,
thịt lợn, thịt gia cầm, và các sản phẩm thịt khác). Khoảng 3/4 mức gia tăng xuất khẩu thịt
được xuất sang Nhật Bản, là nước có mức nhập khẩu thịt (hầu hết là thịt bò) sẽ tăng
khoảng 2,8 tỉ USD so với kịch bản vạch ranh giới. Trong trường hợp nhập khẩu thịt lợn
vào Nhật Bản, ngoài thuế tính theo giá hàng, Hệ thống Giá ở cửa trang trại của Nhật Bản
ấn định một thuế bổ sung đánh vào mỗi lô hàng thịt lợn nhập khẩu có giá đơn vị nhỏ hơn
mức giá ở cửa trang trại (524 yên/kg). Mức thuế này bằng mức chênh lệch giữa giá ở cửa
trang trại và giá đơn vị nhập khẩu. Sự phức tạp và tính hay thay đổi ở hệ thống này khiến
không thể đánh giá thuế quan tương đương của thuế theo giá ở cửa trang trại, và vì thế kết
quả của mô hình chỉ phản ánh việc bãi bỏ thuế tính theo giá trị hàng, song vẫn tiếp tục tồn
tại Hệ thống giá ở cửa trang trại. Việc bãi bỏ Hệ thống giá ở cửa trang trại sẽ dẫn tới tiếp
tục tăng thêm nhập khẩu thịt lợn.
Về các dòng thương mại song phương, mức gia tăng giá trị xuất khẩu thịt của Mỹ chủ
yếu nhờ tăng xuất khẩu thịt gia cầm sang Canađa và tăng xuất khẩu tất cả các loại thịt
sang Nhật Bản và Việt Nam. Mức gia tăng xuất khẩu thịt của Ôxtrâylia chủ yếu nhờ tăng
xuất khẩu thịt bò sang Nhật Bản, Mỹ và Canađa. Phần lớn mức gia tăng xuất khẩu thịt của
Canađa sẽ do tăng xuất khẩu thịt gia cầm sang Nhật Bản, Mêhicô và Việt Nam. Mức tăng
trưởng lớn nhất trong xuất khẩu thịt của Niu Dilân sẽ xảy ra đối với xuất khẩu thịt bò sang
Nhật Bản, Canađa, Mỹ, và Mêhicô.
Sản phẩm sữa sẽ chiếm gần 20% trong tổng mức gia tăng mậu dịch nông sản nội khối
TPP nhờ có kịch bản TPP bởi hiện tại nhiều nước thành viên TPP áp thuế quan cao đối
với sản phẩm sữa nhập khẩu (dù cho sản phẩm sữa chiếm dưới 5% tổng mậu dịch nông

251
5.766
89
2.308
41
17.061
408
5.685
-7
19

Phần trăm thay đổi
giá trị mậu dịch nội
khối TPP 2025 nhờ
có TPP
(Phần trăm, %)
77,5
6,2
1,5
1,8
2.4
-0,1


Mía/Củ cải đường
Sợi
Cây trồng khác

Lợn
Gia cầm

963
1.536
1.622
52.562
135.545

0
3
29
31
2
32
5
2.161
157
796
487
569
108
69
464
265
255
531
1.199
8.548

1,0
0,2
0,7

những khu vực đó, và điều khoản tiếp cận miễn thuế đối với các sản phẩm sữa từ các nước
sản xuất sản phẩm sữa chủ yếu, như Mỹ và Niu Di lân, trong TPP sẽ là một sự chuyển
hướng chính sách lớn đối với Canađa. Thảo luận chi tiết hơn về chương trình quản lý cung
ứng của Canađa nêu trong Hộp 2.
Mậu dịch ngũ cốc trong nội khối TPP được đánh giá sẽ tăng khoảng 8% về giá trị vào
năm 2025 theo kịch bản TPP, so với năm 2025 theo kịch bản vạch ranh giới. Xấp xỉ toàn
bộ (97%) mức tăng trưởng mậu dịch ngũ cốc nội khối TPP được cho là là nhờ gia tăng
nhập khẩu ngũ cốc vào Nhật Bản, hầu hết là gạo và lúa mì. Nhập khẩu gạo vào Nhật Bản
sẽ gia tăng đáng kể theo kịch bản TPP, chủ yếu tăng nhập từ Mỹ, tiếp theo là tăng nhẹ
nhập từ Ôxtrâylia và Việt Nam. Tuy vậy, dú tổng nhập khẩu gạo vào Nhật Bản tăng gấp
đôi, tỉ trọng gạo nhập khẩu trên thị trường Nhật Bản chỉ tăng 10% và sản lượng trong
nước giảm dưới 3%. Mặc dù việc bãi bỏ thuế quan cực cao đối với vượt hạn ngạch nhập
khẩu gạo sẽ là sự thay đổi cơ bản về chính sách của Nhật Bản, sẽ rất khó khăn đối với các
nhà cung cấp trong nhóm TPP để cung ứng được nhiều gạo hơn sang thị trường Nhật Bản
so với con số được nêu trong kết quả của mô hình. Người tiêu dùng Nhật Bản rất ưa
chuộng giống gạo Japonica được sản xuất ở Nhật Bản, và Hộp 3 mô tả những hạn chế ở
Ôxtrâylia và Mỹ trong việc gia tăng sản xuất gạo Japonica của hai nước này.
20


Việc bãi bỏ thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu chịu thuế (TRQ) chỉ dẫn tới gia tăng nhỏ
về giá trị nhập khẩu ngô vào Nhật Bản vào năm 2025, so với kịch bản vạch ranh giới.
Nhật Bản sản xuất rất ít ngô, và sản xuất chăn nuôi của nước này phụ thuộc chủ yếu vào
ngô nhập khẩu. Kịch bản TPP dẫn tới giảm sản xuất chăn nuôi bò, lợn và gia cầm của
Nhật Bản, và kết quả là giảm nhu cầu thức ăn chăn nuôi ở nước này. Trong mô hình này,
hầu hết ngô nhập khẩu vào Nhật Bản được dùng làm nguyên liệu đầu vào trung gian để
sản xuất các mặt hàng thuộc nhóm "thực phẩm khác", một khu vực bao gồm sản xuất cả
thức ăn chăn nuôi và sản xuất cả tinh bột và các chất làm ngọt từ ngô, và khu vực này
giảm 0,1%. Nhu cầu nhập khẩu ngô vào Nhật Bản có tăng trưởng nhỏ trong kết quả mô
hình này, mặc dù nhu cầu thức ăn chăn nuôi giảm và sản lượng "thực phẩm khác" giảm là

thương mại.
Hộp 2:
Chương trình quản lý cung ứng của Canađa
Hệ thống quản lý cung ứng của Canađa giới hạn lượng cung các sản phẩm sữa, thịt
gia cầm và các sản phẩm trứng sản xuất trong nước và nhập khẩu nhằm đạt được lợi
nhuận cao hơn cho các nhà sản xuất Canađa và làm cho giá tiêu dùng ổn định hơn. Các
hệ thống sản xuất và tiêu thụ tuân theo quản lý cung ứng có ba đặc điểm chính:
1. Các chính sách hỗ trợ giá căn cứ vào chi phí sản xuất và lợi nhuận công bằng và
quản lý,
21


2. Sản lượng bị hạn chế theo nhu cầu ở mức giá được xác định bởi chi phí, và
3. Các biện pháp biên giới nhằm ngăn ngừa sự cạnh tranh của nước ngoài, bao gồm
các hạn ngạch nhập khẩu chịu thuế (TRQs) với các mức thuế quan khá cao có tính
ngăn chặn đối với số lượng nhập khẩu vượt hạn ngạch.
Theo hệ thống quản lý cung ứng của Canađa, khối lượng sữa nước và sữa công
nghiệp có thể được sản xuất bởi mỗi tỉnh bị giới hạn và chỉ phân phối cho các điền chủ
có hạn ngạch. Các hạn ngạch tương tự dùng để quản lý sản xuất gia cầm và trứng ở
trong nước. Trong khi những hạn ngạch này có thể được gia tăng và các hạn ngạch bổ
sung có thể được cấp nhằm điều chỉnh cho khớp với tăng trưởng nhu cầu ở thị trường
trong nước, những người mới vào các khu vực bị quản lý cung ứng, cùng với bất kỳ
nhà sản xuất nào mong muốn tăng sản lượng của mình, phải mua hạn ngạch từ những
người sẵn lòng bán. Khối lượng hạn ngạch nhỏ dẫn tới giá hạn ngạch và giá sản phẩm
bị quản lý cung ứng tăng cao, sẽ kìm hãm nhu cầu ở Canađa đối với những sản phẩm
này.
Trong kịch bản TPP ở báo cáo này, các thành viên TPP giành được quyền tiếp cận
miễn thuế thị trường Canađa đối với các sản phẩm sữa, gia cầm và trứng. Rất khó để
mô phỏng phản ứng về cung ứng của Canađa trong những lĩnh vực này bởi nhiều mức
thuế vượt hạn ngạch đánh vào các mặt hàng bị quản lý cung ứng là những thuế suất hải

Sự đáp ứng về chất lượng trên thị trường gạo TPP
22


Kịch bản Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong báo các này dỡ bỏ
các mức thuế cao đánh vào gạo nhập khẩu vượt hạn ngạch từ các nước TPP vào Nhật
Bản. Do Chính phủ Nhật Bản trực tiếp kiểm soát việc nhập khẩu gạo và quản lý kỹ
lưỡng việc sản xuất gạo ở Nhật Bản, có khả năng định cỡ việc cung ứng gạo ở Nhật
Bản sao cho giá thị trường trong phạm vi Nhật Bản ở mức cao theo chuẩn thế giới. Vì
giá gạo trong nước của Nhật Bản ở mức cao, điều phải được kỳ vọng là nhập khẩu có
thể chiếm tỉ trọng lớn trong mức tiêu dùng gạo ở Nhật Bản sau khi dỡ bỏ thuế quan
trong kịch bản TPP. Tuy nhiên, thị trường gạo này rất khác biệt, và khoảng 98% tổng
cung gạo của Nhật Bản - tất cả gồm toàn bộ sản lượng của Nhật Bản và 2/3 là nhập
khẩu - được phân loại là gạo Japonica. Gạo Japonica có hạt ngắn, tròn và dính hơn hầu
hết gạo Indica. Điều này phản ánh sở thích của người tiêu dùng Nhật Bản đối với gạo
Japonica; gạo Indica hạt dài không có khả năng thay thế mạnh mẽ gạo Japonica trong
sử dụng hàng ngày. Trong mô hình này, các tác giả nắm bắt được những tác động của
các sở thích mạnh mẽ này của người tiêu dùng trong việc chế ngự nhập khẩu gạo vào
Nhật Bản bởi giả thiết giá trị co dãn nhập khẩu thay thế thấp đối với gạo.
Việc cung ứng gạo Japonica từ các nước TPP khác tập trung ở Mỹ và Ôxtrâylia. Việt
Nam, nước cung cấp gạo hàng đầu thế giới, lại sản xuất gạo Indica. Sản lượng gạo
Japonica hiện tại, (bao gồm gạo Japonica và các giống tương tự với loại gạo Japonica)
trong khu vực TPP được nêu ở bảng dưới đây:
Sản lượng gạo Japonica, trung bình thời kỳ 2011-13
Quốc gia
Nhật Bản
Mỹ
Ôxtrâylia
Tổng TPP




độ dài hạt trung bình, được gọi là gạo hạt trung bình. Tuy nhiên, người tiêu dùng gạo
Japonica ở châu Á ưa chuộng gạo Japonica hạt ngắn hơn. Việc chuyển sang sản xuất
gạo Japonica hạt ngắn có thể dẫn tới giá bán cao hơn cho những người trồng lúa ở Mỹ
và Ôxtrâylia, song chắc chắn kèm theo sẽ là giảm năng suất, là điển hình của sản xuất
loại gạo này. Khả năng sản xuất tính trên một hecta có thể tăng về giá trị, song sẽ giảm
về mặt khối lượng. Ngoài ra, người tiêu dùng Nhật Bản đang ngày càng quay sang các
loại lương thực thực phẩm được nuôi, trồng theo tiêu chuẩn hữu cơ. Khí hậu khô ở
thung lũng Sacramento, California khiến cho việc sản xuất theo phương pháp hữu cơ
dễ dàng hơn ở Nhật Bản, song việc sản xuất theo phương pháp hữu cơ, trong khi thu
được lợi nhuận cao hơn, thì chắc chắn năng suất sẽ thấp hơn so với sản xuất gạo
Japonica theo tập quán hiện tại.
Cuối cùng, việc chuyển hướng gạo Japonica của Mỹ và Ôxtrâylia từ các thị trường
khác sang Nhật Bản là điều có thể song không chắc sẽ gây được ảnh hưởng đáng kể tới
việc nhập khẩu của Nhật Bản. Nhật Bản đã nhập khẩu khoảng 35% tổng xuất khẩu gạo
hạt trung bình và hạt ngắn của Mỹ. Hàn Quốc và Đài Loan có hạn ngạch cụ thể của
từng thị trường, được phép tiếp cận nhập khẩu hàng năm trên 100 ngàn tấn gạo của
Mỹ, hầu như toàn bộ là gạo hạt ngắn và hạt trung bình. Sẽ khó khăn đối với các nhà
nhập khẩu Nhật Bản khi nỗ lực đưa gạo Mỹ rời khỏi các thị trường Hàn Quốc và Đài
Loan. Việc chuyển hướng gạo Japonica của Mỹ có thể từ các nguồn sử dụng ở Mỹ
hoặc xuất khẩu sang các nước ngoài châu Á. Nếu Nhật Bản mua toàn bộ gạo Japonica
xuất khẩu của Mỹ mà hiện tại không xuất sang Đông Á (khoảng 400 ngàn tấn), thì xuất
khẩu gạo Japonica của Mỹ sang Nhật Bản sẽ tăng 130-150%, hoặc khoảng 5-6% tổng
mức tiêu dùng của Nhật Bản. Cũng có thể tăng gạo Japonica nhập khẩu đến từ
Ôxtrâylia (trong những năm khi nguồn cung nước ở nước này cho phép). Trần xuất
khẩu gạo Japonica của Ôxtrâylia khoảng 350 ngàn tấn - chiếm thêm 4-5% nữa mức tiêu
dùng của Nhật Bản. Tuy nhiên, việc tiếp cận đầy đủ thị trường Nhật Bản chắc chắn sẽ
gây ra tăng giá đáng kể ở các nước xuất khẩu, hạn chế phần nào sự hấp dẫn của gạo
nhập khẩu ở Nhạt Bản. Căn cứ vào tư cách thành viên hiện tại của nhóm TPP, những

Niu
Dilân


ru

Singa
pore

Mỹ

Việt
Nam

Tổng


Ngũ
cốc
Rau/
quả
Hạtcó
dầu
&SP
Thịt
SP
sữa
N.sản
khác
Tổng

-0,4

-126,0

-1,8

-1,7

2,1

0,0

0,9

7,1

-30,2

-143,2

8,5

-5,2

0,0

-17,7

1,4


-11,2

0,5
1,0

-0,2
-2,0

7,2
7,4

-20,8
-11,1

-47,5
-3,8

-968,5
-196,7

27,7

14,4

0,6

-768,0

-76,3


-154,8

-105,1

-183

-2.582,9

Bảng 13. Giá trị mức chênh mậu dịch nông sản vào năm 2025 theo kịch bản
TPP, đơn vị: triệu USD (tiếp theo)
Ôxtrây Cana Chi lê Nhật
Ma

Niu
lia
đa
Bản laixia hicô
Dilân
Mức chênh xuất khẩu nông sản sang phần thế giới còn lại
Ngũ
-14,3
-4,3
-0,1
0,0
0,0
0,3
-0,3
cốc
Rau/
-7,2

0,0
-48,2
sữa
N.sản
-36,4
-0,8
-4,4 12,8
0,0
0,0
-9,0
khác
Tổng -121,6
5,2 -14,3 13,8 -26,9
0,9 -125,7
N.sản


ru

Singa
pore

Mỹ

Việt
Nam

Tổng

0,0

0,0

-0,5
-0,4

-6,9
-0,6

-0,9
-0,1

-113,6
-55,2

-1,7

-3,2

-23,0

-59,4

-125,1

-1,8

-4,8

-97,9


Ngũ cốc
11.295 10.101
2.733
67.854
1.426
6.550
368
Rau/
8.657
4.220
5.643
48.820
721
14.096
4.616
quả
Dầu&
4.321
9.661
672
6.876 33.514
3.407
1.753
mỡ

25

Pê ru

Sin


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status