Kỷ yếu hội thảo khoa học chúa nguyễn và vương triều nguyễn trong lịch sử việt nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX phần 2 - Pdf 35

Quốc sử quán triều Nguyễn
từ thời vua Gia Long đến Tự Đức
TS. Trần Vũ Ti*

Tồn tại trong vòng 125 năm (1820 - 1945), Quốc sử quán triều Nguyễn đã để
lại cho đời một khối lợng t liệu đồ sộ và một lợng công trình quy mô. Đây là cơ
quan văn hoá - giáo dục chuyên trách biên soạn lịch sử của triều Nguyễn và cũng là
cơ quan làm sử lớn nhất, chặt chẽ nhất và thành công nhất trong nền sử học quân chủ
Việt Nam. Thành công của Quốc sử quán không chỉ để lại nhiều tác phẩm sử học,
địa lý lớn, đây còn là cơ quan viết sử đã thử nghiệm và vận dụng hầu hết các thể viết
sử truyền thống Trung Hoa và Việt Nam một cách nhuẫn nhuyễn và sáng tạo. Các
tác phẩm của Quốc sử quán có giá trị sử liệu nói riêng và cả những giá trị văn hoá
nói chung. Thành công của Quốc sử quán cũng là thành công của chính sách phát
triển văn hoá - giáo dục của triều Nguyễn, đặc biệt là các vị vua đầu triều từ Gia
Long đến Tự Đức. Sự quan tâm và những chính sách u tiên của ngời đứng đầu nhà
nớc quân chủ là nhân tố quyết định đến sự phát triển của Quốc sử quán.

1. Sứ mạng đặt ra cho Quốc sử quán triều Nguyễn.
Triều Nguyễn trị vì đất nớc trong một hoàn cảnh lịch sử phát triển phức tạp,
đặc biệt là về văn hoá - t tởng. Để bảo vệ vơng quyền dòng họ và cả yêu cầu
thống nhất quốc gia, triều Nguyễn đã cố gắng xây dựng một nhà nớc quân chủ
trung ơng tập quyền vững mạnh. Sức mạnh đó đã dập tắt các mu đồ cát cứ, các
hành động tiếm quyền nhng không thắng nổi một thách thức khó khăn là cuộc xâm
lợc của thực dân Pháp. Lịch sử triều Nguyễn chứa đựng nhiều mâu thuẫn và khó
khăn, ban đầu là vấn đề chính thống, yêu cầu thống nhất quốc gia, ổn định xã hội
đến vấn đề canh tân rồi vận mệnh dân tộc, bảo vệ độc lập Hoàn cảnh đó ảnh
hởng không thuận chiều với hoạt động của Quốc sử quán, nhng chính khó khăn ấy
đã khẳng định vị trí của sử học, thành nhu cầu trị nớc của các vị vua đầu triều.
Năm 1802, Nguyễn ánh lên ngôi, công việc quan trọng của vua Gia Long là
phải khẳng định đợc sự chính thống. Việc đó không đơn thuần chỉ là hình luật, hay
các vần thơ tán dơng công trạng mà phải bằng những phơng tiện thiết thực và hiệu

trong các tác phẩm sử học nhằm nêu gơng trị đạo cho đời, khen chê về luân lý, nêu
cao chính thống, chống nguỵ triều, tán dơng công trạng, sự nghiệp của vua và
dòng họ vua Coi Nho đạo là sử đạo, Quốc sử quán chịu sự chi phối của thuyết
Thiên mệnh, coi vua là thiên tử, thay trời trị dân. Tâm lý con ngời phơng Đông
rất coi trọng thiên nhân cảm ứng, họ quan niệm thuận với trời thì thịnh, nghịch với
trời thì suy. Điều đó đợc các sử quan Quốc sử quán vận dụng triệt để. Các tác phẩm
sử học luôn thần thánh vai trò dòng họ Nguyễn, coi sự trị vì của dòng họ là sự ủng hộ
của trời đất và các lực lợng siêu nhiên. Quyền của vua (vơng quyền) kết hợp với
quyền của thần (thần quyền) tạo nên hoàng quyền tối thợng của vua Nguyễn.
Biên soạn lịch sử để phục vụ lợi ích của vơng triều, tuy nhiên, trong một
chứng mực nào đó, các vị vua Nguyễn đã tỏ ra rất tôn trọng sử học và chỉ dụ cho các
sử quan làm cho đợc tín sử. Năm 1821, vua Minh Mạng dụ rằng: Nớc có sử là
để tin ở đời này mà truyền lại cho đời sau Tất cả thần công các ngời dự vào sử
cuộc hãy nên cố gắng làm sao cho bút pháp đợc đứng đắn, vựng biên không thiếu
sót, tập thành tín sử một đời1. Khi duyệt bộ Đại Nam thực lục, vua Thiệu Trị đã chỉ
thị cho Trơng Đăng Quế: Ngơi nên truyền bảo cho sử thần cứ việc chép thẳng,
sửa lại đôi chút cho trang nhã Vua Tự Đức cũng đã khuyên các sử quan cố gắng:
Phải khảo xét cho kỹ, đính chính tinh tờng, nên phải tốn nhiều năm tháng.
Mặc dù vậy, vua trực tiếp viết phần ngự phê, đánh giá một số nhân vật lịch sử,
1

Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, tập 1, NXB Thuận Hoá, Huế 1992, tr.153.

381


quyết định phần phàm lệ và việc phân kỳ lịch sử thì việc biên soạn lịch sử, nhất
là lịch sử vơng triều Nguyễn khó mà trở thành tín sử.

2. Quá trình xây dựng và phát triển của Quốc sử quán

đã trung hng, thống nhất bờ cõi, trong khi đó, những việc lớn công to, nếu chẳng có
sử sách thì lấy gì truyền lại cho đời sau lâu dài. Trẫm muốn dựng Sử quán, sai các
bậc nho thần soạn tập bộ Quốc triều thực lục để nêu lên những công cuộc xây dựng
1

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, NXB KHXH, Hà Nội 1969 - 1978,
tr.121.

382


nền tảng thịnh vợng để cho đời sau bắt chớc vậy1, bèn sai chọn bên tả trong kinh
thành, thuộc địa phận phờng Phú Văn (sau gọi là phờng Trung Hậu, nay thuộc
phờng Thuận Thành) họp thợ xây đắp, hơn một tháng thì xong. Nhà vua thân hành
đến thăm, cho dựng biển khuynh cái hạ mã trớc sân. Hai bên tả hữu tấm biển có
2 con hổ nằm phủ phục để quan quân mỗi lần đi ngang qua phải nghiêng lọng xuống
ngựa để tỏ lòng tôn kính sử sách và ngời làm sử nớc nhà.
Tân Tỵ (1821), mùa Hạ, tháng Năm, Minh Mạng sai quan soạn Liệt thánh
thực lục, cử chởng hữu quân Nguyễn Văn Nhân làm Tổng tài, thợng th Trịnh
Hoài Đức và Phạm Đăng Hng làm phó Tổng tài, các tham tri Trần Minh Nghĩa,
Nguyễn Khoa Minh, Nguyễn Văn Hng, Nguyễn Huy Trinh, Hàn Lâm chởng viện
học sĩ Hoàng Kim Hoan, Thái thờng tự khanh Lê Đồng Lý, Lại bộ thiêm sự Lê
Đăng Doanh, Đông các học sĩ Đinh Phiên, Hàn lâm thị giảng học sĩ Nguyễn Tuần
Lý, Nguyễn Mậu Bách làm toản tu, đặt 25 ngời làm biên tu, 5 ngời khảo hiệu, 12
ngời th chởng, 8 ngời đằng lục2. Nh vậy đến triều Minh Mạng, Quốc sử quán
đã có trụ sở riêng, biên chế số lợng sử quan lớn, cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ. Điều
đó chứng tỏ sự quan tâm của triều Nguyễn đối với lịch sử và ngời viết sử nớc nhà.
Bên cạnh đó, Minh Mạng thờng xuyên theo dõi và đốc thúc công việc của
Quốc sử quán. Quý Tị (1833), vua xuống dụ: Nhà nớc có sử là để làm tài liệu
đáng tin cho đời nay và truyền mãi về sau. Ta từ lúc mới lên ngôi, liền muốn biên

quan. Vua cũng cho xây thêm nhà Công thự của chức toản tu và nhà Giải vũ đài của
chức biên tu ở hai bên tả hữu Quốc sử quán1. Vua Thiệu Trị còn xuống chiếu cử Văn
minh điện đại học sĩ là Trơng Đăng Quế, Đông các đại học sĩ là Vũ Xuân Cẩn cùng
sung tổng tài, thợng th bộ Công là Nguyễn Trung Mậu, thợng th bộ Lễ Phan Bá
Đạt sung làm phó tổng tài, cho thự thị lang bộ Công là Đỗ Quang Lâm làm Hàn lâm
viện trực học sĩ, án sát Thái Nguyên là Tô Trân làm Thái Bộc tự khanh, lang trung bộ
Binh là Vũ Phạm Khải làm Hồng Lô tự khanh đều sung chức toản tu, còn từ chức
biên tu trở xuống đều cho đổi sang viện hàm Hàn Lâm. Dới thời Thiệu Trị, Quốc sử
quán đợc củng cố, mở rộng các chức danh, điều đó giúp cho công tác biên soạn lịch
sử đợc tiến triển nhanh hơn.
Đinh Mùi (1847), Tự Đức lên ngôi. Hàng loạt vị công thần đợc thăng cấp,
các gia đình Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất đợc phục hồi danh dự, tạo
điều kiện cho sự hoàn chỉnh các bộ sử biên niên về thời Gia Long. Tuy nhiên, việc
lên ngôi không đúng nguyên tắc Khổng giáo cũng nh những bất hoà trong nội bộ
Hoàng tộc khiến triều đình Tự Đức gặp nhiều khó khăn, hàng loạt cuộc khởi nghĩa
nông dân nổ ra khiến triều đình phải vất vả đánh dẹp. Thêm vào đó là tiếng súng
xâm lợc của thực dân Pháp đã làm cho triều đình lúng túng. Dù vậy, Tự Đức và
triều Nguyễn vẫn có những sự quan tâm thích đáng đối với Quốc sử quán. Chỉ dụ của
vua nêu rõ: Việc đời cổ đã lờ mờ, lấy gì làm kinh nghiệm cho đời sau? Đạo học
cha đợc sáng tỏ, nguyên nhân chẳng vì sử cũ cha đợc đầy đủ đó sao?. Nhà vua
cũng nhấn mạnh đến tính cần thiết phải biên soạn quốc sử: Nếu cha biên tập đợc
bộ Việt sử, cha chấn hng đợc nền cố học, thì đó cũng là khiếm khuyết của thời
đại thịnh trị (do đó) cần phải cử hành việc trọng đại ấy cho kịp thời. Hoạt động
biên soạn sử sách dới triều Tự Đức đợc tiến hành rầm rộ, tài liệu sử dụng cũng nh
sách vở in ấn cũng nhiều hơn, nhà vua phải cho xây thêm một nhà dài phía sau trụ sở
Quốc sử quán để đựng đồ gỗ và mộc bản in sách gọi là Tàng bản đờng2.

3. Hoạt động và những thành tựu của Quốc sử quán
triều Nguyễn
Quốc sử quán là cơ quan văn hoá - giáo dục, một bộ phận hợp thành của nhà

làm lễ 5 lạy Các quan sử xếp hàng làm lễ 5 lạy, xong quan bộ Lại quỳ tâu, xin cho
quan tuyên chỉ làm lễ bái mạng Quan khâm mạng tuyên chỉ đến trớc chỗ án vàng
trên điện, bng ống kim phợng, từ thềm giữa xuống, để ở trên long đình. Ty loan
nghi khênh đi, che lọng vàng từ cửa giữa đại cung ra, tán vàng, nhã nhạc nghi trợng
đều đi theo. Quan tuyên chỉ đi theo cửa giữa Ngọ Môn, đến trớc cửa Quốc Tử
Giám, Quan sử đều quỳ đón ở hai bên tả hữu ngoài cửa. Quan khâm mạng mở ống
lấy dụ chỉ ra, quay mặt về hớng Nam đứng, đọc xong lại bỏ vào trong ống để lên
hơng án rồi lui ra. Quan sử làm lễ 5 lạy và làm lễ xin lĩnh tế 5 lạy, rồi chia 2 hàng,
vâng lĩnh dụ chỉ viết tinh tế ra giấy vàng đem niêm yết, còn bản chính lu lại ở Quốc
Tử Giám. Quan sử đổi áo thờng, lu lại quán bắt đầu làm việc1.
Kính dâng thực lục: Phàm biên chép thực lục, khi làm xong, chọn ngày tốt,
kính dâng lên vua ngự lãm. Trớc một ngày, bộ Lễ đặt 3 cái án vàng ở gian chính
giữa Quốc sử quán, quan sử bày bộ Thực lục lên đó. Đến ngày lễ, vào canh 5, các
viên tổng tài, toản tu đến trớc án vàng bng hộp đựng Thực lục. Nhã nhạc nổi lên,
ty Loan nghi rớc hơng đình, long đình đi lên, đồ nghi trợng, tán, kiếm, nhã nhạc
đi trớc, tổng tài trở xuống đi hộ vệ sau, vào Hoàng thành theo cửa giữa Ngọ Môn.
Khi đến điện Cần Chánh, nhã nhạc ngừng, các sử quan chia nhau bng các bộ sách
dâng lên. Thân phiên và hoàng thân quỳ đón và đợi đặt lên án vàng gian giữa điện.
Nhà vua đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, đeo đai ngọc, cầm ngọc khuê, ngự lên
điện Kiền thành. Hai tên thái giám rớc nhà vua đến trớc án vàng, hớng về bắc
quỳ xuống dắt ngọc khuê vào đai và mở thực lục ra xem2.
Nghi thức biên soạn thực lục, dâng thực lục quả thực rất rờm rà, huy động
nhiều thành phần đủ cả thân phiên, hoàng thân, thị vệ, thái giám, các quan văn võ, đủ
cả Lễ bộ, Lại bộ, có cả nhã nhạc, tán vàng, nghi trợng Tuy nhiên, điều đó cũng
chứng tỏ thái độ tôn trọng của triều đình Nguyễn đối với sử học.
1

2

Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 8, NXB Thuận Hoá, Huế 1993,

định Việt sử thông giám cơng mục thì in cha xong. Tiến độ biên soạn các bộ sử
khác cũng rất chậm chạp: Đại Nam liệt truyện (đến năm 1889 mới soạn xong phần
chính biên), Đại Nam nhất thống chí đến năm 1882 mới hoàn thành, Minh Mạng
chính yếu phải đến năm 1894 mới soạn xong. Phần in ấn, phát hành lại càng chậm
chạp hơn nữa: Năm 1900 mới phát hành Đại Nam liệt truyện, 1901 ấn hành Minh
Mệnh chính yếu, 1905 phát hành Thực lục tiền biên Có thể thấy một thực tế: Các
bộ sử chủ yếu của Quốc sử quán đợc hoàn thành sau năm 1884 và phần lớn đợc
phát hành đầu thế kỷ XX, khi mà triều Nguyễn đã không giữ đợc độc lập. Mục đích
dùng các tác phẩm sử học nh một nhu cầu trị nớc và chính thống hoá sự trị vì của
vua Nguyễn đã không đạt đợc, Quốc sử quán đã không đáp ứng đợc kỳ vọng mà
các vua Nguyễn đặt ra.
Dù phải đối diện với rất nhiều khó khăn nhng các vị vua đầu triều từ Gia
Long đến Tự Đức đã có sự quan tâm thích đáng đối với công tác biên soạn sử sách.
Kết quả của sự quan tâm ấy là Quốc sử quán ngày càng đợc xây dựng chặt chẽ và
quy mô hơn. Triều Nguyễn cũng đã bố trí nhiều trí thức lớn, trong số đó có nhiều vị
là tứ trụ triều đình hay Thợng th các Bộ làm Tổng tài phụ trách công tác biên
386


soạn sử sách. Trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến động, đội ngũ sử quan cha
nhiều nhng kết quả mà Quốc sử quán đã làm đợc (cơ bản biên soạn thành công
các bộ sử lớn: Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí,
Khâm định Việt sử thông giám cơng mục, Minh Mệnh chính yếu) thật đáng trân
trọng. Thành công của Quốc sử quán cũng là thành công về chính sách văn hoá giáo dục của các vị vua triều Nguyễn. Đành rằng, Quốc sử quán đã không đáp ứng
đợc nhu cầu trị nớc đơng thời nhng nh mong muốn của các vị vua đầu triều,
biên soạn lịch sử để làm gơng trị loạn cho đời sau, Quốc sử quán đã có những đóng
góp quan trọng cho sử học nói riêng và nền văn hoá dân tộc nói chung. Quốc sử quán
đã để lại một khối lợng t liệu đồ sộ về nhiều mặt, làm cơ sở cho chúng ta nghiên
cứu, tìm hiểu về lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX.


mặt tổ chức và nhiệm vụ thì có phỏng theo quy chế Nội các của nhà Minh và nhà
Thanh của Trung Quốc. Nhng Nội các của hai triều đại Minh, Thanh quyền hành
luôn đứng trên Lục bộ. Nhà Thanh, quan đứng đầu Nội các đợc thăng lên đến
Chánh nhất phẩm1.

*

Viện Sử học Việt Nam
1. Nhị thập ngũ sử: Thanh sử cảo - Thợng Hải cổ tịch xuất bản xã - Thợng Hải th điếm, tr.
114.

388


Bốn viên quan phụ trách Nội các gồm: 2 ngời hàm Chánh tam phẩm là Thị
lang các Bộ hoặc Hàn lâm viện Chởng viện học sĩ sung biện công việc Nội các,
trong đó một ngời kiêm lãnh Thợng bảo khanh; 2 ngời hàm Chánh tứ phẩm là
Hàn lâm viện Thị độc học sĩ sung làm việc Nội các, trong đó một viên kiêm lãnh
Thợng bảo thiếu khanh. Ngoài 4 viên quan đứng đầu kể trên, Nội các còn có 28
ngời thuộc viên, phẩm trật từ hàm Chánh ngũ phẩm xuống tới Tòng cửu phẩm.
Nội các là cơ quan rất quan trọng, công việc rất nhiều, nhiệm vụ có quyền
nhận "những chơng sớ, sổ sách, án kiện của các nha, lục bộ cùng các thành, trấn
trong ngoài đã phụng sắc phê bảo, lãnh chỉ rồi thì nghĩ lời chỉ dụ mà trình lại để tuân
hành"1.
Để tránh tệ chuyên quyền, trong một lời dụ cho Sử quán, Minh Mệnh đã đem
tấm gơng chuyên quyền của Nội các nhà Minh, Thanh để răn đe: "Vua Thánh Tổ
(nhà Minh) mới dựng ra Nội các, lấy các viên Hàn lâm vào làm thăng chức Đại học
sĩ nhng trật chỉ ngũ phẩm để làm cố vấn mà thôi, sau phẩm trật càng cao quyền
hành càng lớn, tuy không có cái tên gọi là Tể tớng mà có cái thực quyền Tể tớng,
cho nên vua Thế Tôn nhà Minh dùng Nghiêm Tung, vua Cao Tôn nhà Thanh dùng

độ chức phận rõ ràng, ai nấy đều phải giữ đúng nhiệm vụ. Đến nh việc quân, việc
nớc là những việc lớn lao, khi lâm sự, ta truyền bảo tận mặt. Bộ và Nội các vâng dụ
chỉ, nên phiếu làm theo từ trớc đến giờ cũng đã đều đợc ổn thỏa đẹp đẽ cả. Nhng
nghĩ: còn những việc quân, việc nớc trọng yếu, cơ mật và lớn lao, cũng cần phải
phỏng theo nh Khu mật viện của nhà Tống và Quân cơ xứ của nhà Thanh, châm
1. Nội các triều Nguyễn: Hội điển. Sđd, tập I, tr. 199.

390


chớc mà làm, để riêng làm một sở. Công việc có chuyên trách, thì chế độ, quyền
hạn và chức phận càng đợc chu đáo hơn. Vậy nay chuẩn cho đặt ra Cơ mật viện.
Khi có việc nớc, việc quân trọng đại, sẽ đặc cách xuống dụ chọn ngời sung làm Cơ
mật đại thần, vâng theo phiếu ghi mà thi hành để tỏ rõ sự thận trọng"1.

II. Hoàn thiện Lục bộ
Vua Gia Long noi theo điển chế từ trớc, ngay khi lên làm chủ toàn cõi Việt
Nam đã thiết lập 6 bộ: Lại - Hộ - Lễ - Binh - Hình - Công.
Năm 1804, Gia Long cho đúc ấn triện của 6 bộ, và năm 1806 cho xây dựng
nhà cửa trong Kinh thành để làm trụ sở cho các bộ, nhng cha đặt đủ các chức
Thợng th.
Thợng th 6 bộ mãi tới năm Gia Long thứ 8 (1809) mới đợc chính thức đặt
ra. Sách Đại Nam thực lục chính biên chép về sự kiện này nh sau:
"Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1809) lấy:
- Thợng th Binh bộ Lê Quang Định làm Thợng th Hộ bộ.
- Cải thụ Lại bộ Trần Văn Trạc làm Thợng th Lại bộ.
- Lễ bộ Đặng Đức Siêu làm Thợng th Lễ bộ.
- Binh bộ Đặng Trần Thờng làm Thợng th Binh bộ.
- Hình bộ Nguyễn Tử Châu làm Thợng th Hình bộ.
- Công bộ Trần Văn Thái làm Thợng th Công bộ.

b. Tòng nhất phẩm
b. Tòng lục phẩm
2) a. Chánh nhị phẩm
7) a. Chánh thất phẩm
b. Tòng nhị phẩm
b. Tòng thất phẩm
3) a. Chánh tam phẩm
8) a. Chánh bát phẩm
b. Tòng tam phẩm
b. Tòng bát phẩm
4) a. Chánh tứ phẩm
9) a. Chánh cửu phẩm
b. Tòng tứ phẩm
b. Tòng cửu phẩm

392


+ Vị nhập lu1.
Ngoài số nhân viên chính thức kể trên, còn những nhân viên ngoại ngạch,
gồm một số Cử nhân và Giám sinh Quốc tử giám đã đợc tuyển lựa để đa đến học
tập chính sự tại các bộ đờng gọi là Hành tẩu.
ở mỗi bộ, Trởng quan phụ trách gồm 5 ngời: 1 Thợng th, 2 Tham tri (Tả,
Hữu tham tri) và 2 Thị lang (Tả, Hữu thị lang). Số Trởng quan này vì cần phải có
một kiến thức văn hóa rộng rãi, và nhất là để tạo ra uy tín đối với nhân viên cấp dới
nên thờng đợc lựa chọn những ngời có khoa mục. Riêng đối với Bộ Binh vì tính
chất đặc biệt của bộ này phụ trách, nên các viên Trởng quan, chủ yếu là Thợng th
lại thờng đợc tuyển từ hàng ngũ võ quan. Song, dới triều Minh Mệnh, cũng
không loại trừ khả năng các đại thần xuất thân khoa mục đợc giao những trọng
trách về quân sự, nh trờng hợp Trơng Minh Giảng chẳng hạn.



chia bớt quyền hành cho các công thần khai quốc (triều Nguyễn gọi là công thần
trung hng) vì số này khá đông, họ vừa có công lao rất lớn, vừa có thực tài, lại đang
nắm những lực lợng quân sự mạnh. Bên cạnh đấy, các trấn Bắc Hà là "nớc cũ" của
nhà Lê hơn 300 năm, con cháu các bề tôi nhà Lê còn nhiều, lòng ngời còn hớng về
triều cũ, Gia Long không đủ tự tin ngồi tại Kinh đô Huế mà có thể nắm chặt đợc
miền đất này.
Gần 20 năm dới thời Gia Long và hơn 10 năm dới thời Minh Mệnh hình
thành và củng cố chế độ quyền lực của Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành là
một thời gian khá dài. Việc xóa bỏ chức Tổng trấn để thủ tiêu một chế độ quyền lực
mà chế độ đó lại quan hệ đến đặc quyền, đặc lợi của nhiều viên quan đại thần là
công việc không đơn giản chút nào. Có lẽ, khi mới lên ngôi vào năm 1820, Minh
Mệnh đã tính tới điều đó, cho nên cha thể tiến hành vội vàng đợc.
Cuộc cải cách bộ máy hành chính cấp Tỉnh mà việc làm cụ thể đầu tiên là xóa
bỏ các đơn vị "Thành" và "Trấn", chia đặt cả nớc thành 31 tỉnh, không phải ngẫu
nhiên đợc tiến hành vào hai năm 1831-1832. ở đây rõ ràng có sự liên quan tới độ
"chín" về nhân cách cũng nh năng lực và bản lĩnh chính trị của Minh Mệnh.
Đọc chính sử triều Nguyễn, chúng ta sẽ thấy khi bớc vào tuổi "tứ thập", tức
vào những năm 1829, 1830, Minh Mệnh rất có ý thức về vị trí của mình đối với
vơng triều Nguyễn. Hoài bão của ông là muốn làm "một Lê Thánh Tông của triều
Nguyễn".
Tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), cuộc cải cách bộ máy hành chính
cấp Tỉnh chính thức đợc tiến hành ở các trấn từ Quảng Trị, phía bắc Kinh đô Huế ra
tới toàn bộ Bắc Kỳ, Minh Mệnh sắp xếp lại các trấn và chia thành 18 tỉnh.
Một năm sau, vào tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) lại chia tỉnh, đặt
quan từ trấn Quảng Nam trở vào trong là 12 tỉnh. Nh vậy vào hai năm 1831 và
1832, Minh Mệnh đã chia cả nớc (từ Kinh đô Huế) thành 31 tỉnh (30 tỉnh và 1 phủ
Thừa Thiên) trong đó có 10 tỉnh lớn, 10 tỉnh vừa và 10 tỉnh nhỏ. Đồng thời với việc
chia tỉnh, Minh Mệnh tiến hành cải tổ lại bộ máy quan lại đứng đầu địa phơng. Các

của Minh Mệnh.
Minh Mệnh ban thởng khá rộng rãi khi có công lao và đại dụng những ngời
dới quyền tỏ ra có tài và mẫn cán, song cũng rất nghiêm khắc trớc những tội lỗi
của quan lại. Dới thời Minh Mệnh, việc xử chém những viên quan đại thần tham
nhũng và chặt bàn tay những kẻ thủ kho bớt xén của công là chuyện không phải
hiếm thấy.
Đối với quan lại, Minh Mệnh đòi hỏi ở họ trớc hết là tài năng và khả năng
hoàn toàn xuất sắc chức trách đợc giao. Trờng hợp Minh Mệnh xử tội án sát
Quảng Ngãi Nguyễn Đức Hội là một thí dụ. Nguyễn Đức Hội thờng ngày lơ là với
chức phận lại thờng tham nhũng tự cho rằng mình vốn là bề tôi cũ của Minh Mệnh
khi còn ở tiềm để (tức cung của Thái tử), dầu có quá lắm cũng không đến nỗi tội
nặng. Khi chuyện vỡ lở, Minh Mệnh đã lột hết chức của Nguyễn Đức Hội và phát
vãng ra Cam Lộ làm lính cơ Định man. Nhận chuyện đó, Minh Mệnh đã bảo Nội các
rằng: "Ta từ khi lên ngôi đến nay, dùng ngời làm việc, giữ một mực công bằng, dẫu
có kẻ tôi con thân tín từ trớc cũng chỉ dùng theo tài năng, chứ không t vị một
ngời nào. Kẻ nào có tội cũng theo pháp luật trừng trị, cha từng gợng nhẹ bao
giờ"2.
Đặc biệt với các bề tôi thân cận, Minh Mệnh tỏ ra rất khắt khe trớc những lời
tán tụng, định khoác lên ông những hào quang giả. Sách Đại Nam thực lục ghi chép
lại sự việc khá tế nhị dới đây: "Thị lang Nội các là Phan Thanh Giản và Trơng
1. Nh trên.
2. Đại Nam thực lục, tập XIV, tr. 337.

395


Đăng Quế dâng bài tụng đại khánh (tứ tuần đại khánh của Minh Mệnh - NMT) thuật
các công việc từ lúc vua lên ngôi đến nay, siêng lo chính trị làm gốc để đợc phúc
hởng thọ.
Vua phê: "Bọn ngơi không lo cố gắng làm hết chức phận, cứ ngày đêm thêm

cũng không tránh khỏi bị trừng phạt.
3. Chú trọng việc đào tạo, tuyển chọn ngời tài cho bộ máy hành chính
Một bộ máy hành chính tốt, cần phải có những con ngời có trình độ văn hóa,
có trách nhiệm và tính liêm khiết cao. Lịch sử nền hành chính quốc gia từ xa cho
thấy, nếu có pháp luật cụ thể, chi tiết, nghiêm minh vẫn cha đủ, mà điều tối quan
trọng là cần có một đội ngũ ngời làm việc có trách nhiệm, công tâm vì dân, vì nớc.
Có thể nói, cải cách hành chính do Minh Mệnh chỉ đạo thực hiện đạt đợc
những kết quả nhất định, bởi lẽ đã từng bớc củng cố chế độ quan văn, dần dần hạn
chế vai trò của võ quan. Sự tiến triển của chế độ văn quan cũng là một đặc điểm của
nền chính trị ở các nớc phơng Đông chịu ảnh hởng văn hóa Nho giáo.
Nh vậy, đứng trớc một sự lựa chọn, Minh Mệnh thờng trọng thực học hơn
nguồn gốc xuất thân. Dới triều Minh Mệnh, mặc dù văn quan đợc coi trọng nhng
cũng không bao giờ quên chỉnh đốn việc quân. Vì thế quân đội Nguyễn dới triều
Minh Mệnh là một lực lợng quân sự mạnh và điều đó đã đợc kiểm nghiệm trong
thực tế.

397


Cải cách hành chính dới triều Minh Mệnh mang lại hiệu quả là củng cố và
tăng cờng chế độ giám sát toàn bộ nền hành chính quốc gia.
Tuy nhiên, do những hạn chế về thế giới quan nên mặc dù có những cải cách
hành chính tích cực nhng Minh Mệnh vẫn không vơn đợc ra thế giới bên ngoài
mà ngợc lại càng "đóng cửa" hơn trớc, và từ chối toàn bộ lời thỉnh cầu thiết lập
mối giao bang của các nớc phơng Tây.

398


Tính năng động của công trình thủy lợi

nớc trung bình của dòng sông ở vào khoảng 2,50 mét trên mực nớc biển. Vào đầu
mùa nớc cao (tháng sáu-mời), mực nớc lên nhanh và có thể đạt đến 10 mét trong
*
1

Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) tại Hà Nội
Lớp phù sa sông Hồng, ớc tính 130 triệu tấn mỗi năm, xếp con sông đứng vào hàng thứ 8 trên
thế giới về lợng phù sa tải đi (Béthemont, 2000).

399


vài ngày: cao độ của kinh thành là 5 mét, nh vậy Hà Nội sẽ bị con sông đe dọa
trong suốt mùa ma. Mối đe dọa định kỳ đó là một thực tế đối với đại bộ phận các
khu vực tụ c và đất đai trên châu thổ, trừ vùng đất cao phía tây-bắc. Vì vậy, thành
phố đợc cải tên là Hà Nội năm 1831, và những làng mạc trung du và hạ châu thổ,
đợc tồn tại bền lâu một cách kỳ lạ nhờ vào lao động không ngừng của những ngời
nông dân đắp đê, trổ các cửa cống và đào kênh mơng.
Mục tiêu của báo cáo này là bàn về chính sách thủy lợi trên châu thổ sông
Hồng do các vua triều Nguyễn thực hiện, trớc và đầu cuộc can thiệp thực dân, đặt
trong tính năng động lịch sử lâu dài. Ngoài những nghi ngại về đờng lối theo đuổi
công trình đắp đê rất tốn kém mà vẫn không đem lại một sự bảo vệ thỏa mãn đủ
chống lại lũ lụt và sự đổi dòng đột ngột của các con sông, chúng tôi cố chứng minh
rằng các vua của triều đại này trên một vài khía cạnh nào đó vẫn là những ngời đi
đầu trong lĩnh vực làm chủ nớc và đặt cơ sở cho một sự qui hoạch hợp lý châu thổ
sông Hồng.
Vài mốc lịch sử: đắp đê, một u tiên lâu đời
ở Việt Nam, cũng nh ở Trung Quốc, xây dựng đê điều thờng trực tiếp do
các vị hoàng đế điều hành. Thiên mệnh giao cho một ngời quyền uy tối thợng,
nghĩa là quyền hợp pháp cai trị thiên hạ (Cadière L., 1914), đòi hỏi nhà vua phải

Vấn đề còn bỏ ngỏ với giả thiết văn hóa đó là vai trò của Nhà nớc và khả
năng can thiệp của nó. Về điểm chủ yếu này, nếu lập luận của Karl Wittfogel đa ra
trong công trình gây tranh cãi Tính chuyên chế phơng Đông đã bị phê phán nhiều từ
khi ra đời, thì tác giả đã biết nhắc rằng việc làm chủ và kiểm soát nớc đã tất yếu đa
đến mối quan hệ quyền lực giữa chính quyền trung ơng với xã hội nông dân. Và
trên thực tế, từ thế kỷ XIII, nghĩa là khi nhà Trần đặt cơ sở cho sự thành lập một
chính quyền mang tính quí tộc và quân sự, biên niên sử hoàng gia mới nói đến việc
thực hiện những công trình thủy lợi lớn và yết lộ từng mẩu sự phác thảo một tổ chức
hành chính và quân sự chuyên biệt. Sau trận lụt do cơn lũ lớn làm vỡ đê Long Đàm
(tỉnh Hà Nội ngày nay) tháng mời 12451, sự kiện cho thấy đê sông Hồng ít ra cũng
đã đợc xây đắp một phần. Sách Đại Việt sử ký viết: Đời Thái Tôn hoàng đế (12251258). Triều Thiên ứng chính bình [] Mậu Thân năm thứ 17 (1248). Tháng 3, sai
các lộ đắp đê giữ nớc sông, gọi là đê Đỉnh nhĩ (quai vạc), đắp suốt từ đầu nguồn
cho đến bờ biển để giữ nớc lụt tràn ngập. Đặt chức Hà đê chánh phó sứ để trông
coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp vào mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại
tiền. Đắp đê Đỉnh nhĩ bắt đầu từ đấy. [] Năm thứ 5 niên hiệu Nguyên Phong cùng
triều vua [] Mùa hạ tháng 4 (5-1255)chọn các tản quan làm Hà đê chánh phó sứ
các lộ, khi nào rỗi việc làm ruộng thì đốc thúc quân lính đắp bờ đê đào mơng lạch
để phòng lụt hạn.
Quả thật các nguồn sử liệu có đợc không đồng nhất và thiếu dấu vết hay
bằng chứng viết từ bên dới ở cấp làng xã, phải chấp nhận nguy cơ một sự thổi
phồng khả năng của quyền lực vơng triều áp đặt có hiệu quả đối với nông thôn. Dù
sao, đoạn trích trên cho thấy đối diện với công trình lớn lao phải hoàn thành, việc
đắp đê toàn bộ sông Hồng đã đợc nhà vua định ra phơng hớng cho các tỉnh thực
hiện bằng việc sử dụng nguồn nhân lực dễ huy động là quân đội. Nhng mặc cho
hình thức tổ chức đầu tiên và quản lý các công trình thủy lợi đó, nỗ lực đắp đê thực
hiện trong thế kỷ XIII và XIV không đợc tiến hành theo một qui hoạch tổng thể
trên châu thổ và phải dựa vào các kỹ thuật xây dựng theo kinh nghiệm và có chất
lợng không đều từ tỉnh này sang tỉnh khác. Hậu quả là sự mong manh của đê điều
đắp nên và chỗ tiếp nối thành hệ thống đôi khi không vững chắc, không đủ để chống
lại những trận lũ trung bình của sông Hồng và các chi lu, chứng cớ là có nhiều ghi

hộ và đốc phu phải liên tục đôn đốc thực hiện [] (Deloustal, 1911: 128).
Rồi đến cuối thế kỷ XVII khi đất nớc tơng đối tạm yên dới thời chúa
Trịnh, nguồn sử liệu nói về vấn đề tu bổ đê điều ít ỏi hơn. Quả thật đất nớc vừa trải
qua một thời kỳ cực kỳ rối ren và bất ổn chính trị do cuộc nổi dậy của nhà Mạc và
một loạt cuộc chiến đẫm máu giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Đầu thế kỷ XVIII.
Cơng mục viết: Tháng 8, mùa thu. Hạ lệnh sửa đắp đờng đe sông Nhị. Hàng năm
nớc sông Nhị tràn ngập, đờng đê nhiều chỗ khuyết liệt. Triều đình bèn hạ lệnh hai
ty Trấn thủ và Thừa chính đốc sức dân phu, thùy theo địa thế bồi đắp sửa chữa, để
lợi cho nông dân3. Ba năm sau (1711), năm thứ 7 triều Vĩnh Thịnh, nhà vua quyết
định điều chỉnh tổ chức hộ đê bằng việc cử quan triều đình đến giám sát. nhng lời
cẩm án chép tiếp sau đó rằng: Triều đình chia cho dân phải nộp tiền thuế điệu để
hàng năm phải sửa đắp, dân phải tốn của hao công, mà một khi sảy ra nạn nớc
xoáy vỡ đê, dân lại bị hại không sao kể xiết4. Cuối cùng, chỉ có ba đoạn của các
chơng 33 đến 35 trong Cơng mục (1663 đến 1721) nói đến việc đắp đê và chỉ nói
về việc tu sửa chứ không có làm mới. Tình hình đó ngợc lại với nhiều đoạn nói về
1

ất Mùi năm [Hồng Đức] thứ 6 (1475). Tháng 7, mùa thu. Có thủy tai lớn, vỡ đê Tô Lịch. Đặt

chức quan hà đê và quan khuyến nông. Nhà vua ra sắc lệnh cho trong nớc sửa đắp đê điều
và đờng sá, đặt chức quan hà đê trông coi công việc này: lại đặt chức quan khuyến nông để
đôn đốc về việc cày cấy. Việt sử Thông giám Cơng mục, t. XII, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội,
1959, tr. 1082.
2
Việt sử Thông giám Cơng mục, t. XIII, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959, tr. 113.
3
Việt sử Thông giám Cơng mục, t 2. XIII, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 2007, tr. 395
4
Việt sử Thông giám Cơng mục, t 2. XIII, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 2007, tr. 397


đình miếu. Nay quan viên hai xã tiến hành đo đạc, phần rào lũy bao quanh đã làm
đợc 99 trợng, đào mơng đợc 581 trợng, khu miếu chu vi 61 trợng 6 thớc.
[] Tổng cộng số tiền đóng góp là 1010 quan tiền sử, số ngời đã cúng hiến ruộng
cho việc đào đắp mơng lũy là 148 vị. Để biểu dơng công đức, hai xã dựng bia
khắc tên họ những ngời đóng góp tiền và ruộng vào việc chung và đặt lệ thờ phụng
mãi mãi.2
Song song với các sáng kiến địa phơng, từ thế kỷ XV, vơng triều đã ban bố
một loạt chỉ dụ kêu gọi dân chúng đắp cao các con trạch, đào hồ chứa nớc và nạo
1

Kênh rạch là những đoạn sông cạn, có rất nhiều trên châu thổ sông Hồng, bảo đảm việc giao
thông tự nhiên giữa dòng sông và các vùng đất mà kênh rạch chảy qua.
2
Thác bản bia xã Thời ủng huyện Vĩnh Lại phủ Hạ Hồng, su tầm tại đình xã Hoà ủng tổng
Bất Bế huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dơng, Th muc thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam,
2007, Hà Nội, Viện NCHN - EFEO - EPHE, Tập III, tr. 281.

403


vét kênh rạch nhằm làm tăng nguồn nớc sẵn có tạo thuận lợi cho việc làm vụ tháng
5, và nếu có thể thì trồng lúa sớm thay thế vụ lúa tháng 10 bị tàn phá vì vỡ đê
(Pouyanne, 1931: 34). Nh vậy vào cuối thế kỷ XV, Sông Đào đã đợc đào vừa để
tới nớc vào mùa khô và tiêu nớc vùng thấp trong mùa ma (Fiorucci A., 2006).
Vì không thể cắt ngang thân đê, cũng nh cấu tạo của địa hình với những
giồng đất và những vùng trũng tự nhiên, đòi hỏi phải dùng biện pháp cơ giới đa
nớc lên cao để lấy nớc dới sông trong mùa khô. Về điểm này, trong nghiên cứu
về công trình tới nớc, E. Chassigneux nhận xét rằng nếu một vài văn bản và sắc
chỉ lệnh cho các quan và dân chúng làm xe lấy nớc1, thì không có một chi tiết nào
nói rõ về các máy đó, cũng không biết nó có tồn tại không. Phải chăng đấy là

nghiệp để tát nớc.
2
Việt sử thông giám cơng mục, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, t. IV, 1958, tr. 315, t. ĩ, tr. 819.

404



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status