Tiểu luận chính sách công chính sách giải quyết việc làm cho nông dân vùng bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp ở việt nam hiện nay (tiểu luận chính sách công} - Pdf 43

mở đầu

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang mang lại
những thành tựu đáng kể cho nền kinh tế xã hội của đất
nớc. Sự ra đời của hàng loạt các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, khu chế xuất với những phơng thức sản xuất hiện
đại đã đóng góp to lớn cho sự phát triển chung, tạo nên một
nền công nghiệp hiện đại cho nớc nhà. Tuy nhiên, đi cùng với
quá trình đó là kế hoạch thu hồi đất nông nghiệp để xây
dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp phục vụ cho
việc đa những tiến bộ của nhân loại vào sản xuất nhằm
tăng năng suất lao động. Việc thu hồi đất diễn ra ở khắp
các vùng miền của Tổ quốc, tác động không nhỏ tới đời sống,
việc làm và thu nhập của một bộ phận dân c cũng nh đời
sống xã hội.
Với ngời nông dân thì đất là tài sản quý giá nhất. Đó là
nguồn sống chính của họ. Bởi đất không chỉ dùng để xây
nhà, dựng cửa mà quan trọng hơn, đất là nơi ngời nông dân
gửi gắm những kỹ thuật sản xuất, canh tác, nuôi trồng lúa và
các cây trồng vật nuôi khác. Thu nhập chính của nông dân
là từ những vụ mùa thu hoạch đợc trên mảnh đất của mình.
Bên cạnh đó, những sản phẩm từ nông nghiệp cũng góp
phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế đất nớc.
Việc thu hồi đất nông nghiệp tơng đơng với lấy đi
nguồn thu nhập chính của ngời nông dân. Mất đất sản xuất,
không có việc làm, cuộc sống của họ trở nên bấp bênh hơn
bao giờ hết. Và đối với ngời nông dân lúc này thì việc làm
càng trở nên quan trọng, vấn đề giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp càng trở nên cấp bách đòi hỏi phải có

1

An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các
thành viên của mình thông qua một số biện pháp đợc áp dụng
rộng rãi để đơng đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế
và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do
ốm đau, thai sản, thơng tật do lao động, mất sức lao động hoặc
tử vong. An sinh xã hội cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các
gia đình nạn nhân có trẻ em ( ILO 1984).
b) Theo các chuyên gia Việt Nam
Dựa vào khái niệm chính thống của ILO và tình hình thực
tiễn ở Việt Nam, các chuyên gia Việt Nam đã đa ra hai quan niệm
khác nhau về an sinh xã hội.
Quan nim th nht cho rng an sinh xó hi cú cu trỳc thnh ba hp phn
c bn:

3


Một là, hệ thống chính sách và các chơng trình về thị trờng lao động, đợc coi là tâng phòng ngừa trong toàn bộ hệ thống
an sinh.
Hai là, hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội đợc coi là xơng
sống của toàn bộ hệ thống an sinh xã hội quốc gia.
Ba là, hệ thống trợ giúp xã hội bao gồm của cả Nhà nớc và xã
hội nhằm trợ giúp các đối tợng yếu thế nh ngời tàn tật, ngời già cô
đơn, trẻ em mồ côi hoặc trợ giúp khẩn cấp cho những ngời gặp
rủi ro thiên tai.
Quan nim th hai cho rng an sinh xó hi cú cu trỳc thnh sỏu hp phn:
Một là, chính sách và các chơng trình thị trờng lao động
tích cực mà trọng tâm của nó là trợ giúp tạo việc làm cho các đối
tợng yếu thế trong thị trờng lao động và trợ cấp cho số lao động
dôi d do quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, cổ phần hóa

cụ của Nhà nớc đợc thể chế hóa bằng các cơ chế, chính sách, giải
pháp cụ thể để tác động vào các quan hệ xã hội nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội đang đặt ra, góp phần thực hiện công bằng ,
bình đẳng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con ngời
b) Khái niệm lao động
Theo quy định của Bộ luật Lao động: Lao động là mọi
hoạt động tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần cho xã hội.
Nh vậy lao động là phơng thức tạo ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần, đem lại cuộc sống ấm no cho con ngời, đóng vai
trò quyết định trong lịch sử phát triển của loài ngời và là nhân
tố quyết định sự phát triển của xã hội.
c) Khái niệm việc làm, ngời có việc làm, thất nghiệp
Dới góc độ khoa học Luật Lao động: Việc làm đợc hiểu là
Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp
luật cấm.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO): Ngời có việc làm là
ngời đang làm những việc mà pháp luật không cấm, đợc trả tiền
công hoặc lợi nhuận, hoặc đợc thanh toán bằng hiện vật, hoặc
ngời tham gia vao các hoạt động tạo việc làm vì lợi ích hay vì
thu nhập gia đình không đợc nhận tiền công hay hiện vật.
Thất nghiệp là tình trạng một bộ phận trong lực lợng lao
động muốn làm việc nhng không thể tìm đợc việc làm kể cả với
5


mức tiền công thấp hơn mức tối thiểu hiện hành. Ngời thất
nghiệp là ngời có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc nhng
cha tìm đợc việc làm. Tuy nhiên trong Luật Bảo hiểm năm 2006
xác định ngời thất nghiệp là ngời đang làm việc theo hợp đồng
lao động hoặc hợp đồng làm việc mà bị mất việc làm hoặc

động tiêu cực nếu nh Đảng và Nhà nớc không có những chính
sách đúng đắn để tao việc làm cho ngời lao động.
Đối với lao động ở nông thôn, bị thiếu việc làm là một trong
những vấn đề rất nổi cộm. Trong những năm gần đây, do yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, Chính
phủ đã có những kế hoạch đầu t xây dựng và phát triển các khu
công ngiệp. Đi liền với đó là những diện tích đất nông nghiệp
vốn là đất canh tác của nông dân bị thu hồi. Nông dân mất đất,
mất việc làm, họ rơi vào trình trạng thất nghiệp. Chính lúc này,
sự trợ giúp về việc làm, một trong những nội dung của an sinh xã
hội, cần phải đợc thực hiện nhằm sớm đa ngời nông dân thoát
khỏi tình trạng khó khăn, ổn định cuộc sống.
1.2 Quan im ca ng
Lấy dân làm gốc là một trong những quan điểm chỉ đạo
tiên quyết của Đảng và Nhà nớc ta trong mọi lĩnh vực. Vì vậy,
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nớc và thực
hiện mô hình kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta đã luôn coi trọng nhân tố con ngời, coi con ngời vừa là
mục tiêu vừa là động lực của phát triển.
Để thực hiện mục tiêu phát triển vì con ngời, do con ngời, trớc hết phải tạo môi trờng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển
kinh tế, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống
nhân dân. Đặc biệt, khi xây dựng các khu công nghiệp và đô
thị phải đi đôi với tạo việc làm để ngời dân bị thu hồi đất
không bị rơi vào tình trạng thất nghiệp, đời sống giảm sút, ảnh
hởng đến cuộc sống của họ và tác động tiêu cực đến xã hội.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề trên,
Đảng ta đã đa ra một số quan điểm nh sau:
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa lấy con ngời làm
trung tâm nâng cao chất lợng lao động, đáp ứng yêu cầu của thị


mà có cả lao động giản đơn nên cơ quan, doanh nghiệp phải thu
nhận cả lao động nông nghiệp vào các vị trí thích hợp, thực hiện
ly nông, không ly hơng, giải quyết lao động tại chỗ vừa có lợi
cho doanh nghiệp, vừa có lợi cho địa phơng.

8


II. C s thc tin
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc gắn liền
với sự ra đời của hàng loạt của các khu công nghiệp mới đợc xây
dựng để đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ là một thực tế
khách quan. Tuy nhiên, để có thể xây dựng đợc các khu công
nghiệp, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nớc ta đã thực
hiện chính sách thu hồi đất nông nghiệp. Vì vậy diện tích đất
sản xuất bị thu hẹp lại, ngời nông dân phải đối mặt với nhiều
khó khăn nh nhà ở, điều kiện học tập, chăm sóc sức khỏe, tái
định c và nhất là vấn đề học nghề và chuyển đổi nghề.
Theo thống kê của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
giai đoạn 2001-2005, bình quân mỗi năm tổng diện tích đất bị
thu hồi phục vụ phát triển công nghiệp và xây dựng đô thị là
73.300ha. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi tập trung chủ
yếu ở các vùng đất đai phì nhiêu kết cấu hạ tầng kĩ thuật, hạ
tầng xã hội thuận lợi khiến cho đời sống của ngời dân gặp nhiều
khó khăn .
Trong những năm qua, Nhà nớc ta cũng có những chính sách
hỗ trợ cho ngời nông dânvùng bị thu hồi đất đai nh chính sách
định c tại chỗ, hỗ trợ đào tạo nghề, chuyền đổi nghề nhng do
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên số lợng nông dân mất
việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp vẫn cha thể khắc phục

Chng 2. THC TRNG V CHNH SCH GII QUYT VIC LM
CHO NGI NễNG DN B THU HI T
2.1. Vn vic lm ca ngi nụng dõn b thu hi t
2.1.1 Thc trng v thu hi t nụng nghip
Hiện nay, do yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nớc, Nhà nớc cần lấy đi một phần đất nông nghiệp
để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và xây dựng
kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế chung của đất nớc.
Đó là một yêu cầu khách quan và còn có xu hớng phát triển trong tơng lai. Việc thu hồi đất diễn ra ở hầu khắp các vùng miền của
đất nớc. Vừa qua, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã tổ chức hội thảo Nông dân bị thu hồi đất thực trạng
và giải pháp. Hội thảo đã đánh giá tình hình thu hồi đất nông
nghiệp để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc nh
sau:
Trong 7 năm qua (từ năm 2001 2007), tổng diện tích đất
nông nghiệp đã thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp lên
đến trên 500.000 ha. Chỉ tính riêng năm 2007, diện tích lúa
gieo trồng cũng đã giảm 125.000 ha. Các vùng kinh tế trọng điểm
có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi lớn nhất, chiếm khoảng
50% diện tích đất bị thu hồi trên toàn quốc. Theo điều tra của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại 16 tỉnh, thành phố
trọng điểm cho thấy, diện tích đất thổ c chiếm khoảng 11%,
diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm 89%, hầu hết là đất
lúa, thuộc diện bờ xôi, ruộng mật. Với diện tích đất này, hàng
năm sản lợng lúa của cả nớc có thể giảm trên 1 triệu tấn.
Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích đất bị thu hồi lớn
nhất, chiếm 4,4% tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi.
Trong khi đó, tỷ lệ này ở Đông Nam Bộ là 2,1%, ở nhiều vùng khác
dới 0,5%.



12


đã tạo điều kiện thu hút, giải quyết việc làm ổn định cho hàng triệu lao động với
mức thu nhập khá. Số lao động làm việc trực tiếp trong các khu công nghiệp do
Chính phủ cấp phép không ngừng tăng: năm 2000 là 201 nghìn lao động, đến năm
2005 là 953 nghìn người. Ngoài ra, còn có trên 1 triệu lao động gián tiếp làm dịch
vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Có thể thấy, việc xây dựng các khu công nghiệp cũng góp phần tạo việc làm
đem lại thu nhập cao cho người nông dân khi mà thu nhập từ công việc đồng áng
gần như chỉ đủ để ăn, thì nay họ có thể để tiết kiệm hoặc tích lũy để lo những công
việc lớn của gia đình.
Sự phát triển lớn mạnh của các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng trong những
năm gần đây là một ví dụ điển hình. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, dân số
của vùng đồng bằng sông Hồng năm 2004 là 17,9 triệu người, chiếm 22% số dân
trong cả nước, trong đó tập trung chủ yếu ở nông thôn (14 triệu người). Những năm
gần đây, cơ cấu lao động việc làm của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng đang
có xu hướng chuyển dịch theo hướng tích cực: giảm dần tỷ trọng việc làm trong
nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng việc làm trong các lĩnh vực phi nông nghiệp. Tỷ lệ
lao động lâm, ngư nghiệp đã giảm từ 59,75% năm 2001 xuống còn 54,56% năm
2004, thấp hơn tỷ lệ lao động làm nông , lâm, ngư nghiệp của cả nước là 57,9%
(năm 2004). Lao động làm công nghiệp và xây dựng, lao động dịch vụ tăng từ
17,82% và 22,42% lên 22,18% và 23,5%, đây là tỷ lệ khá cao so với cả nước ( tỷ lệ
này của cả nước năm 2004 là 17,4%).
So với các vùng trong cả nước, tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao của vùng đồng bằng sông Hồng đạt mức khá cao. Năm 2004, lao
động qua đào tạo của vùng đạt tỷ lệ cao nhất cả nước: 31,9% ( cả nước là 22,5%).
Chất lượng của lực lượng lao động vùng đồng bằng sông Hồng đang ngày
càng được nâng cao tạo ra tiềm năng và thế mạnh của vùng trong quá trình công

c nhng kt qu ỏng ghi nhn. Tớnh thun nụng trong cụng vic ca nụng dõn
gim dn, cht lng v giỏ tr vic lm ca nụng dõn ngy cng c ci thin v
nõng cao.
b) Tác động tiêu cực
Chúng ta không phủ định những mặt tích cực mà các khu
công nghiệp đã mang lại, góp phần làm thay đổi những phơng
thức canh tác không còn phù hợp. Thay vào đó là ứng dụng những
kỹ thuật mới làm tăng năng suất lúa. Đồng thời tạo việc làm mang
14


lại thu nhập cao cho nông dân, nâng cao mức sống của một bộ
phận nông dân vùng bị thu hồi đất. Tuy nhiên, những tác động
tiêu cực từ việc thu hồi đất đến đời sống của ngời nông dân vẫn
còn là vấn đề đáng lo ngại.
Thu hi t nụng nghip cho vic xõy dng cỏc khu cụng nghip v ụ th
húa nc ta t ra cỏc vn cn c gii quyt mt cỏch ng b l: i sng,
vic lm ca ngi b thu hi t; chuyn i ngh nghip cho nhng ngi b mt
t liu sn xut; chớnh sỏch n bự, gii phúng mt bng; vn tỏi nh c, s
dng hp lý t ó thu hi
Theo thng kờ hin nay, vựng ng bng sụng Hng cú s h b nh hng
do thu hi t khong 3000 h, ụng Nam b khong 108000 h, s h b thu hi
t cỏc vựng khỏc thp hn, Tõy Nguyờn ch cú trờn 138291 h. Theo B Nụng
nghip v PTNT, trung bỡnh mi h nụng dõn cú 1, 5 lao ng v mi hecta t
nụng nghip b thu hi cú khong 13 lao ng mt vic lm cn phi chuyn ngh
mi, v cú ti 25 - 30% s lao ng sau thu hi t ti mt s a phng khụng cú
vic lm hoc vic lm khụng n nh.
. Nh vy, vic thu hi t nụng nghip v t trong nhng nm qua ó tỏc
ng ti i sng ca khong 2,5 triu nụng dõn. Ti mt s vựng ven ụ ca ng
bng sụng Hng, trc khi thu hi t ch cú 10% lao ng i lm thuờ thỡ sau khi

điều kiện cao hơn trước, 34,5% có điều kiện sống thấp hơn trước. Rất nhiều nông
dân sau khi không tìm được việc làm mới tại các KCN, phải tìm về với nghề cũ
(trồng trọt, chăn nuôi ) nhưng lại chẳng còn đất.
Sau khi bị thu hồi đất, chỗ ăn ở của người nông dân phải thay đổi, đời sống
bị xáo trộn. Họ phải di chuyển đến nơi ở mới để định cư. Môi trường sống thay đổi,
người nông dân phải chăm lo đến việc trước tiên là ổn định lại cuộc sống. Điều kiện
ăn ở, chăm sóc sức khỏe, y tế, học hành của con em… trở nên khó khăn. Cuộc sống
bấp bênh hơn khi diện tích đất sản xuất bị thu hẹp, năng suất giảm kéo theo đó là
thu nhập vốn đã không cao, nay lại còn giảm xuống.
Theo kết quả điều tra của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội đối với
đối tượng bị thu hồi đất nông nghiệp, tại một số tỉnh, tình hình thu nhập của họ biến
động như sau:
Tỉnh/ Thành

Tăng thêm

Tăng không

Không

Giảm

Giảm

phố
nhiều
tăng
nhiều
Hà Nội
4,5

Mất đất, không có việc làm, nông dân gặp vô vàn những khó khăn.
Bên cạnh đó, đời sống của người dân còn bị ảnh hưởng của sự ô nhiễm môi
trường. Đất nông nghiệp bị thu hồi, mật độ dân cư vùng tái định cư ngày càng cao
trong khi đó các yếu tố có lợi cho môi trường như nguồn nước sạch, thảm thực vật,
cây xanh giảm dần. Các yếu tố gây ô nhiễm môi trường sinh thái như bụi, nước thải
công nghiệp ngày càng tăng. Ô nhiễm môi trường dẫn đến việc phát sinh các loại
bệnh tật ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân.
Thông qua việc phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của việc thu
hồi đất để xây dựng tác khu công nghiệp, chúng ta cần phải có những chính sách
phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương để có thề vừa phát huy thế mạnh trong
lực lượng lao động ở địa phương, vừa khác phục tình trạng thất nghiệp đang diễn
biến phức tạp làm ảnh tới đời sống của người nông dân.
1.2.2 Tác động đến kinh tế - xã hội
Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp phục vụ quá trình đô thị hóa đã
mang lại không ít những lợi ích và cả khó khăn cho đời sống của người nông dân.
Ngoài ra nó còn tác động không nhỏ tới nền kinh tế xã hội của đất nước nối chung
và vùng bị thu hồi đất nói riêng, có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực.
a) Tác động tích cực
Trong những năm qua, có thể thấy các khu công nghiệp tập trung đã đóng
góp rất quan trọng vào sự phát triển chung, là nhân tố động lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, biến những vùng thuần nông thành những vùng
kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phổ biến trên 10%/năm. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nông nghiệp trong GDP với tốc độ
khá nhanh. Nhiều tỉnh thuần nông trước đây nhờ phát triển các khu công nghiệp đã
trở thành các tỉnh công nghiệp như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương…
Bộ mặt nông thôn đổi mới theo hướng văn minh, hiện đại. Nhiều nhà máy,
xí nghiệp, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có quy trình sản xuất công nghiệp hiện
đại, công nghệ cao được xây dựng và thu hút hàng chục tỷ USD và hàng nghìn tỷ
đồng của các nhà đầu tư trong nước.
17

thời gian” ở nông thôn có sức khỏe, muốn lao động nhưng không biết làm gì, rong
chơi mãi cũng chán, họ sa vào các tệ nạn xã hội. Điều này không chỉ làm cho người

18


nông dân luôn lo lắng, bất an mà còn tác động tiêu cực tới xã hội, làm mất trật tự,
ổn định trong xã hội.
Như vậy, việc xây dựng khu công nghiệp tập trung dẫn tới nông dân bị thu
hồi đất sản xuất, đã tác động đến mọi mặt của cuộc sống, có nhiều tác động tích
cực, nhưng cũng không ít những tác động tiêu cực như việc làm, thu nhập, tệ nạn xã
hội. Do đó lãnh đạo các cấp ở địa phương cần phải có những giải pháp giải quyết
kịp thời.
2.2. Chính sách tạo việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất và một số
kết quả đạt được
Đứng trước thực trạng trên, trong những năm qua, Nhà nước đã triển khai
nhiều chính sách hỗ trợ cho người dân những vùng bị thu hồi đất nhằm khắc phục
tình trạng thất nghiệp của nông dân. Có thể kể đến một số chính sách sau đây:
Thứ nhất, chuyển đổi lao động nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông
nghiệp: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Tăng cường đào
tạo, hướng nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ; ưu tiên thực hiện tiếp nhận lao động
vào các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, có cơ chế giám sát việc doanh
nghiệp ưu tiên nông dân và con em nông dân sau thu hồi đất. Quỹ đất để lại 10%
giao cho các hộ bị thu hồi đất xây dựng cơ sở dịch vụ theo quy hoạch, các hộ này
liên kết với nhau thành lập hợp tác xã, doanh nghiệp làm dịch vụ hỗ trợ cho các khu
công nghiệp như: dịch vụ bán hàng, nhà ở, cơ sở dạy nghề, văn hóa, dịch vụ môi
trường...
Thứ hai, hỗ trợ nông dân tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang
phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng các tiến bộ khoa học mới tăng giá
trị sản xuất trên một đơn vị diện tích. Quy hoạch khu vực sản xuất nông nghiệp tập

công tác đào tạo nghề, ban hành chính sách khuyến khích khu công nghiệp, doanh
nghiệp lớn xây dựng cơ sở đào tạo nghề tại chỗ.
Sau một thời gian áp dụng các chính sách hỗ trợ cho nông dân vùng bị thu
hồi đất nông nghiệp, chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định
Tính đến 31-12-2006 ở 14 tỉnh, thành phố bị thu hồi đất nhiều nhất đã giải
quyết được việc làm cho 22,3 vạn lao động, bằng khoảng 28% tổng số lao động mất
việc làm (Hà Nội: 25.000 người, Hà Tây: 21.756 người, Lao Cai: 15.770 người, Hà
Tĩnh: 29.068 người, Quảng Nam: 21.517 người, Đồng Nai: 69.670 người...). Con số
này còn quá ít so với số lao động ở nông thôn bị thất nghiệp theo thống kê ở trên,
nhưng nó đã chứng tỏ sự nỗ lực của Nhà nước và các cấp chính quyền khi thực hiện
các chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị mất đất sản xuất.

20


Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn những bất cập đã dẫn đến kết
quả không được như mong muốn của hàng vạn lao động nông nghiệp vẫn bị rơi vào
hoàn cảnh khó khăn.
Một trong những vấn đề khiến cho việc thực hiện chưa đạt hiệu quả, đó là
nhận thức của người nông dân còn thấp. Khi thu hồi đất, Nhà nước đã có những
chính sách hỗ trợ người nông dân bị thu hồi đất những khoản tiền đền bù tương
ứng. Tuy nhiên, do họ chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học nghề và
chuyển đổi nghề, tìm việc làm mới nên việc sử dụng những khoản tiền đó chưa
hợp lý. Qua thực tế ghi nhận được là phần lớn bà con nông dân tỏ ra lung túng,
chưa biết phải đầu tư vào đâu để sinh lợi, đảm bảo cho cuộc sống tương lai khi
đất sản xuất không còn. Một số không nhỏ bà con, trong lúc chưa tìm được
hướng đi mưói cho cuộc sống, sẵn co tiền trong tay đã vung tay tiêu sài, mua
sắm thiết bị, vật dụng gia đình.
Theo thống kê, việc sử dụng tiền đền bù đất của bà con nông dân bị mất đất
ở Bắc Ninh như sau: tu sửa, xây dựng nhà cửa: 28,2%; mua đồ dung sinh

Việc thu hút lao động mất việc làm do bị thu hồi đất vào các khu công nghiệp
phụ thuộc vào các quy định cụ thể ràng buộc với các chủ dự án sử dụng đất để họ
cam kết sử dụng lao động tại chỗ. Các chính sách thu hút lao động vào khu công
nghiệp cần được nhanh chóng sửa đổi cho phù hợp. Có cơ chế hỗ trợ cho các trung
tâm dạy nghề tại địa phương để đào tạo nghề có địa chỉ và đạt chất lượng cao. Đối
với các hộ bị thu hồi đất, tiền đền bù là tài sản quý giá nên cần phải được tuyên
truyền, hướng dẫn họ sử dụng hợp lý. Chính quyền các cấp cần giúp đối tượng này
lựa chọn ngành nghề đào tạo mà các khu công nghiệp đang cần tuyển dụng lao
động. Cùng với hỗ trợ tiền đào tạo từ ngân sách địa phương, nên khuyến khích các
hộ sử dụng tiền được đền bù để cho con em họ, học nghề, học ngoại ngữ... và tạo
điều kiện cho họ đi lao động xuất khẩu, khuyến khích lao động xuất khẩu gửi tiền
về đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo việc làm.
Ba là, với đối tượng người lao động tuổi từ trên 35, khó có khả năng chuyển
đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Nhà nước cần có chính sách dành cấp một phần
đất trong hoặc sát với khu công nghiệp để tổ chức các hoạt động dịch vụ
Biện pháp này nếu được triển khai có hiệu quả sẽ tạo ra hệ thống dịch vụ mới
như xây nhà cho thuê, bán hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ ăn uống, sửa chữa phương
tiện xe đạp, xe máy... tăng mức thu nhập của người dân có đất bị thu hồi. Số liệu
điều tra tại các địa phương được nghiên cứu cho thấy, có 65,7% số người được hỏi

22


đã ủng hộ việc dùng một phần đất dự án để phát triển dịch vụ và 58,3% số người
ủng hộ việc dùng tầng trệt nhà chung cư dành cho dân thuê mặt bằng kinh doanh.
Bốn là, hỗ trợ lao động đi tìm việc làm
Chính sách ưu tiên giới thiệu, tư vấn việc làm miễn phí, thông qua hội chợ
việc làm, hỗ trợ tìm việc cũng là một hướng mở tích cực tạo ra cơ hội có việc làm
cho lao động. Kinh nghiệm ở Hải Dương và Vĩnh Phúc và một số tỉnh khác là thành
lập tổ công tác phối hợp với chính quyền để cùng các cơ sở dạy nghề, các doanh

mới cần phải hình thành cơ chế, hình thức thích hợp đào tạo lại, đào tạo nâng cao
kiến thức, tay nghề thường xuyên cho người lao động.Mạng lưới đào tạo lại, đào tạo
nâng cao phải đáp ứng phổ biến, thuận lợi cho nhu cầu của tất cả những người lao
động có thể tham gia học tâp. Đào tạo lại, đào tạo nâng cao phải bao trùm ở tất cả các
cấp trình độ: trên đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và sơ cấp, công
nhân kỹ thuật.Lập quỹ đào tạo nghề, thực hiện xã hội hóa việc huy động các nguồn
quỹ từ: ngân sách nhà nước trung ương và địa phương, đóng góp của các doanh
nghiệp, đóng góp của các chủ dự án sử dụng đất và sự đóng góp của các tổ chức xã
hội, Hiệp hội nghề nghiệp, của Chính phủ và tổ chức quốc tế...
2.3.2 Khuyến nghị
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa , sự phát triển của các khu
công nghiệp đã góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Những tỉnh có
đất nông nghiệp bị thu hồi nhiều nhất thì vấn đề việc làm cho người nông dân sau
khi bị thu hồi đất cũng là một trong những vấn đề bức xúc nhất.
Trước tình trạng tỷ lệ lao động nông nghiệp bị thất nghiệp đang tăng lên một
cách nhanh chóng, tôi xin đưa ra một số khuyến nghị để góp phần giải quyết việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất như sau:
Một là, Nhà nước cần đẩy mạnh việc đầu tư phát triển hệ thống đào tạo
nghề từ trường lớp, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, lĩnh vực đào đạo, đến chương
trình đào tạo. Cải cách hệ thống giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề theo hướng
hiện đại, gắn dạy nghề với yêu cầu của sản xuất, kinh doanh và thị trường lao động.
Đổi mới giáo trình và phương pháp giảng dạy, tập trung nhiều hơn vào hướng dẫn
thực hành cho học viên. Có chính sách khuyến khích các khu công nghiệp, các
doanh nghiệp lớn xây dựng cơ sở đào tạo nghề tại chỗ nhằm đào tạo nghề cho người
dân có đất bị thu hồi ở địa phương.
Hai là, khuyến khích phát triển mạnh các nghề thủ công truyền thống, các
nghề phụ, nghề phi nông nghiệp, nghề phụ trợ cho các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp. Điều này không chỉ có ý nghĩa tạo ra việc làm và thu nhập cho lao động ở
những vùng bị thu hồi đất, mà còn góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; góp


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status