Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 - Pdf 44

1. MỞ ĐẦU.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động
ngôn ngữ cho học sinh trong đó Tập đọc là phân môn quan trọng trong chương
trình . Nó có ý nghĩa to lớn và trở thành yêu cầu cơ bản đầu tiên đối với mỗi học
sinh. Khi đi học đầu tiên là “trẻ” phải “học đọc” sau đó trẻ phải “đọc” để “học”.
Đọc đã giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học
tập. Đọc là một công cụ không thể thiếu để học tập các môn học . Đọc tạo ra
hứng thú và động cơ học tập để học sinh có khả năng tự học, tinh thần học tập
cả đời. Phân môn này còn trau dồi cho học sinh khả năng kiến thức Tiếng Việt
không thể thiếu được trong thời đại văn minh. Đồng thời “đọc” còn để “giải
mã”các tín hiệu ngôn ngữ để cảm nhận và hiểu tác phẩm, tiếp cận với thế giới
nghệ thuật mà nhà văn xây dựng. Để hiểu một tác phẩm văn học,đọc không chỉ
có ý nghĩa “khởi động” cho quá trình nhận thức và phát triển tư duy nghệ thuật
cho học sinh mà thông qua đọc học sinh biết bộc lộ những tình cảm, thái độ
của nhà văn giúp phát huy tính chủ động sáng tạo và năng lực cảm thụ văn học
cho các em. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học cung cấp cho học sinh những kiến thức
sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con
người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu
Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giáu đẹp của Tiếng
Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rèn kỹ năng đọc cho học sinh. Đọc là một
hoạt động của lời nói, là quá trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói âm thanh
là quá trình chuyển tiếp hình thức chữ viết thành đơn vị nghĩa không có âm
thanh. Cả hai hình thức trên không tách rời nhau .Chính vì vậy, dạy đọc có ý
nghĩa rất to lớn ở bậc Tiểu học. Đọc là một yêu cầu không thể thiếu được của
con người trong thời đại văn minh.
Nếu không biết đọc thì con người sẽ không thể tiếp thu nền văn minh của
loài người, không thể có một cuộc sống bình thường hoặc hạnh phúc với đúng
nghĩa củả nó trong xã hội hện đại. Không biết đọc con người sẽ không có điều kiện
hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được nhân

Tôi chọn đề tài này, bởi vì tôi muốn đồng nghiệp cũng như học sinh có
cách nhìn nhận đúng đắn về vị trí của phân môn Tập đọc. Đó chỉ là thứ yếu, mà
quan trọng là tôi muốn vận dụng những giải pháp trong đề tài để học sinh được
đọc thật tốt, kết hợp đọc với hiểu nội dung đơn vị lời nói, cũng cố nghĩa của từ,
trau dồi vốn từ, nghĩa từ góp phần phát triển một số thao tác tư duy cho các em
học sinh .
Sâu xa hơn, tôi muốn nghiên cứu đề tài này vì muốn bồi dưõng cho học
sinh một số đức tính kiên trì , tính chính xác, yêu thích môn Tập đọc. Giáo dục
các em lòng tự hào, tinh thần trách nhiệm.
* Nhiệm vụ của đề tài :
Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của phân môn Tập đọc. Không tách rời
việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ dạy Tiếng Việt ở Tiểu học. Theo tôi xác định
được mục tiêu của phân môn Tập đọc phải là cụ thể, đúng hướng. Đó là điều
kiện quyết định sự lựa chọn nội dung và phương pháp dạy môn tập đọc.
®èi tîng nghiªn cøu.
- Với đề tài này, tôi tập trung vào nghiên cứu những bước, những thao tác sử
dụng để hoàn thành kỹ năng đọc , trong tiết Tập đọc.
- Nghiên cứu các phương pháp, hình thức tổ chức để giúp học sinh có kỹ
năng thuần thục trong tiết Tập đọc.
- Nghiên cứu tính hiệu quả của việc rèn kỹ năng đọc trong phân môn Tập đọc ph¬ng ph¸p nghiªn cøu.
Để đạt được mục đích rèn đọc cho học sinh tôi đã sử dụng một số phương
pháp sau:
2


* Phương pháp quan sát: Trong giờ học của phân môn tập đọc tôi quan sát
học sinh đọc trên lớp để thu thập tài liệu thực tế về việc học phân môn này ,
làm cơ sở phân tích rút ra nhận xét.
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Tôi xây dựng
một số câu hỏi điều tra học sinh để tìm ra nguyên nhân đọc chưa đúng, chưa

đến hiệu quả giờ học. Vì vậy, giáo viên cần tạo ra mục đích, động cơ học tập nhẹ
nhàng, sinh động giúp trẻ hứng thú trong học tập. Chính vậy kỹ năng đọc có vai
trò hết sức quan trọng đối với học sinh Tiểu học.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm :
2.2.1. Thực trạng.
a. Về phía học sinh:
3


- Năm học 2015 – 2016 tơi được phân cơng chủ nhiệm và dạy lớp 2A.
Học sinh ở độ tuổi tương đối đồng đều, các em có đủ sách giáo khoa và đồ dùng
học tập. Là lớp học 2 buổi/ ngày nên có nhiều thời gian rèn cho học sinh hơn.
Cơ sở vật chất nhà trường khang trang, mát mẻ, thuận lợi cho việc dạy của Thầy
và việc học của trò. Ban giám hiệu nhà trường ln tạo mọi điều kiện, quan tâm,
giúp đỡ giáo viên để giáo viên hồn thành tốt nhiệm vụ.
- Lớp 2A sĩ số 26 em trong đó có 5 học sinh là con em dân tộc
Mường . Có 6 em còn nhỏ so với độ tuổi, thể lực lại yếu và ở xã miền núi
khác cách xa trường 4 đến 5 km nên việc đi lại khá xa và vất vả. Đa số các
em đều là con em nơng thơn nên cách phát âm của các em còn sai nhiều,
mang nặng tiếng địa phương. Tình hình kinh tế nhìn chung còn nhiều khó
khăn thiếu thốn. Có gia đình bố, mẹ đều phải vào Nam làm ăn, các em phải ở
với ơng bà ( đã già), ở với bác. Có em chỉ có mình mẹ. Một số gia đình đơng
con, nên ít được sự quan tâm của bố mẹ hơn thế nữa họ còn phó mặc cho
thầy cơ giáo. Trình độ học sinh khơng đồng đều nên khó khăn cho giáo viên
trong việc truyền thụ kiến thức. Tất cả những vấn đề trên đã ảnh hưởng khơng
nhỏ tới việc học tập của các em. Kết quả học tập của đa số học sinh là chưa cao,
nhất là phân mơn Tập Đọc.
- Chất lượng khảo sát đầu năm kết quả cho thấy: Nhiều em đọc còn yếu, viết
còn thiếu, đọc ê a ngắc ngứ, thậm chí một số em còn phải đánh vần để đọc từng
chữ rất lâu, chưa biết cách ngắt, nghỉ hơi ở các dấu câu

5em
19.24%
- Đọc còn sai âm, sai vấn nhiều
6em
23.07%
- Đọc liến thoắng .
4em
15.38%
26 em
- Đọc giọng đều đều, không phù
5em
19.24%
hợp nội dung bài.
- Ngắt nghỉ đúng, phù hợp nội dung
4em
15.38%
- Ngắn lưỡi, ngọng
2em
7.69

Qua đợt khảo sát trên bản thân tôi thấy học sinh đọc còn yếu, tôi rất băn
khoăn và lo lắng. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm ra và đưa
vào vận dụng một số biện pháp sau:
2.3 . Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Tìm hiểu đặc điểm, năng lực học tập của học sinh .
Ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp tôi đã tiến hành kiểm tra , kháo
sát, phân loại đối tượng học sinh, ghi vào sổ tay cụ thể những lỗi sai của từng
học sinh để trong các giờ tập đọc tạo điều kiện cho các em thực hành sửa sai.
Các em đọc tiếng còn sai âm, sai vần , chưa ngắt nghỉ hơi đúng chỗ . Có
những em đọc còn yếu, đọc còn sai, còn đánh vần rất chậm . Trong giờ tập đọc,

+ Giọng cô tiên: trầm ấm, hiền từ, nhấn giọng ở các từ "Gieo hạt đào,
giàu sang, sung sướng''.
+ Giọng hai anh em: Cảm động, tha thiết. Nhấn giọng các từ, cụm từ:
''nhớ bà , xin bà sống lại ''.
Ví dụ : Bài thơ : '' Đàn gà mới nở''
Toàn bài thơ đọc với giọng âu yếm, hồn nhiên, vui tươi; chú ý thay đổi
giọng đọc tường khổ thơ .
+ Khổ thơ 1: giọng đọc trải dài, dịu dàng, vui tươi khi tả đàn gà con đáng yêu.
+ Khổ thơ 2: Nhịp đọc dồn dập hơn khi tả sư nguy hiểm cả đàn gà con
phải núp vào đôi cánh của gà mẹ.
+ Khổ thơ 3: Trở lại nhịp đọc khoan thai vì nguy hiểm đã qua đi.
+ Khổ thơ 4 , 5: Nhịp đọc trải dài tả vẻ đẹp của đàn gà con.
b. Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh .
Hiện nay có nhiều cách phân chia các hình thức đọc. Nếu dựa trên cơ
sở âm thanh phát ra khi đọc, người ta chia ra đọc thành tiếng và đọc thầm.
Nếu dựa vào số lượng HS tham gia đọc cùng lúc phát ra âm thanh, người ta
chia ra đọc đồng thanh và đọc cá nhân. Luyện kĩ năng đọc cho HS, giáo viên
phải quan tâm cả hai hình thức này nhằm giúp từng cá nhân HS đạt được yêu
cầu đề ra trong từng giai đoạn học. Để học sinh lớp 2 đọc đúng và ham thích
học phân môn Tập đọc thì mỗi giáo viên cần phải kiên trì, bền bỉ trong từng
thao tác, quy trình của mỗi tiết dạy. với kinh nghiệm cảu những năm đã dạy
lớp 2 bản thân tôi nhận thấy: Muốn nâng cao được chất lượng đọc cho học
sinh lớp 2 thì giáo vên phải biết lồng ghép việc đọc đúng vào tất cả các bước
trong một tiết Tập đọc.
Cụ thể:
* Trong bước kiểm tra bài cũ.
Học sinh đọc một đoạn trong bài Tập đọc hoặc đọc thuộc lòng bài đã học ở
tiết trước. Tôi nhận xét và khen ngợi những em đọc đạt yêu cầu.Với những em
6


Ví dụ:
Khi học sinh đọc từ: “tranh bóng” học sinh thường đọc là “chanh
bóng”, trước hết giáo viên phát âm thật chính xác sau đó phân tích cụ thể, tỉ mỉ
từng tiếng, từ để học sinh nắm được cấu tạo của tiếng đồng thời giải thích cho
học sinh hiểu thêm về ý nghĩa của từ, tìm các từ có tiếng “tranh”, các từ có
tiếng “chanh” để các em phân biệt được từ đó sẽ đọc sẽ đúng hơn.
+ Sai vần ưu, vần chứa nguyên âm đôi: ươ
Ví dụ: “ khứu giác” học sinh đọc là “ khíu giác”, “ chai rượu” học sinh đọc là
“ chai riệu”.
+ Sai dấu thanh : dấu ngã đọc thành dấu hỏi .
7


Ví dụ : " hạt đỗ'' học sinh đọc là '' hạt đổ '', ''ngã ba'' học sinh đọc là ''ngả ba''.
Để dạy cho học sinh phát âm đúng tôi không quên rèn kĩ năng nghe . Ở
đây vai trò giọng đọc của giáo viên rất quan trọng. Giữa nghe và phát âm có
mối quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyên kĩ năng nghe cũng hỗ trợ rất nhiều
cho kĩ năng đọc.
* Lỗi mà học sinh còn phát âm sai do 2 nguyên nhân :
+ Nguyên nhân chủ quan : như nói lắp , nói ngắn lưỡi - khó đọc do tật
bẩm sinh.
Ví dụ: anh/ ăn: “quả chanh” học sinh đọc là “ quả chăn” , ...
+ Nguyên nhân khách quan : Do cách phát âm sai của phương ngữ tạo cho
các em thói quen nghe và nói từ khi nhớ. Ví dụ : s / x : sung / xung , sâu / xâu
Để chữa lỗi phát âm sai tôi cho học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm
sai ngay lúc đó nhiều lần. Dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết ngữ
âm và ý nghĩa từ .
Ví dụ : phát âm s / x :
+ Khi phát âm s ( sờ ) : phải uốn lưỡi , hơi thoát ra chân răng đầu lưỡi.
+ Khi phát âm x ( xờ) : hơi ra ở mặt lưỡi và chân răng .

hiện tượng chỉ gọi học sinh khá giỏi đọc. Có thể kết hợp tổ chức trò chơi
luyện đọc ( đọc tiếp sức, đọc “ truyền điện”, đọc theo vai..). Thi đọc trước lớp
cũng như giao tiếp trước đông người, có những em tự tin, mạnh dạn nhưng
cũng có em ít tiếp xúc với đông người nên rụt rè, e thẹn, không dám thể hiện
hoặc thiếu tự tin . Vì vậy giáo viên cần cho các em hiểu rằng mình đọc trước
lớp không phải đọc cho cô giáo nghe mà đọc cho cả lớp nghe , bởi vậy các
em cần đọc to, rõ đồng thời giáo viên cần khuyến khích động viên để khích lệ
tinh thần cố gắng vươn lên của học sinh , dần dần tạo cho các em bạo dạn và
tự tin hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp hằng ngày.
Hàng tháng, tôi ghi rõ mức độ tiến bộ và những lỗi còn mắc phải của từng
học sinh vào một quyển vở riêng để từng bước khắc phục.
Ví dụ: Cứ một học sinh tôi dành riêng một trang để theo dõi.
Em : Mai Thu Thảo.
Đặc điểm : Đọc còn chậm, ngắt nghỉ hơi còn chưa đúng ở các dấu câu,
phát âm còn sai vần: anh/ăn ; ênh/ân ; ươu/iu.
Tháng Tiến bộ
Tồn tại
Biện pháp
Biết ngắt nghỉ hơi Đọc còn chậm, còn Cho luyện đọc nhiều lần
đúng ở các dấu sai vần: ênh/ân, tiếng có vần ênh/ân.
9
câu.
dòng kênh đọc Phân công học sinh khá,
thành dòng cân
giỏi giúp đỡ.
10

11

12


các từ đọc còn nhầm để
đọc lại cho đúng.
.......... ............................ ................................ ........................................
.
.
.
.

Khi hướng dẫn học sinh phát âm, tôi thường phân tích cho các em thấy
sự khác biệt của phát âm đúng, phát âm sai.
Ví dụ: Dạy bài “Voi nhà” (TV2 – Tập 2) phần luyện phát âm, tôi đã cho các em
tập phát âm các từ: khựng lại, quặp vòi, huơ vòi, lững thững.
Tôi gọi một em khá đứng lên đọc, sau đó tôi gọi các em khác nhận xét:
Các từ bạn vừa đọc có phụ âm gì khó phát âm ? Theo em phải phát âm như thế
nào? Nếu học sinh phát âm sai, tôi hướng dẫn tiếng cần phát âm cụ thể. Chẳng
hạn : r/d
+ Âm r : Cong đầu lưỡi lên rồi bật hơi. Ví dụ : rổ rá.
+ Âm d : Lưỡi đặt xuống hàm dưới ,bật nhẹ. Ví dụ : dang tay.
- Với các âm khác, tôi cũng hướng dẫn tương tự như trên. Bước đầu dùng
phương pháp này luyện cho học sinh gặp nhiều khó khăn, nhưng lặp đi lặp lại
nhiều lần như thế các em quen dần và dễ sửa hơn.
- Kết hợp với rèn đọc đúng, tôi còn rèn cho các em đọc trôi chảy, đọc hay.Chính
vì vậy, tôi dùng thời gian thích đáng cho việc luyện đọc ở lớp cũng như ở nhà.
+ Ở lớp : Tôi tăng cường sử dụng hình thức đọc theo nhóm, tuỳ theo từng
bài mà chia nhóm khác nhau. Các em trong nhóm lần lượt đọc cho bạn nghe,
những em còn lại nghe có nhiệm vụ sửa lỗi phát âm cũng như cách ngắt nghỉ hơi
cho bạn. Tôi quan sát từng nhóm, lắng nghe học sinh đọc và luôn nhắc nhở các
em phải đọc rõ tiếng, đọc đúng các cụm từ, câu.
Ví dụ: Nhưng kìa, / con voi quặp chặt vòi vào đầu xe / và co mình lôi mạnh

- Chạy đi ! Voi rừng đấy !
(Giọng đọc thể hiên sự hoảng hốt khi voi xuất hiện)
- Nó đập tan xe mất. Phải bắn thơi !
(Giọng đọc thể hiện sự lo lắng)
Song song với việc đọc trong nhóm, tơi ln tổ chức cho các nhóm thi
đọc trước lớp để kiểm tra q trình luyện đọc nhóm của các em. Ở phần này, tơi
thường cho từ hai đến ba nhóm thi đọc với nhau. Học sinh còn lại lắng nghe, và
đưa ra nhận xét đồng thời bình chọn bạn đọc hay nhất, nhóm đọc tốt nhất. Dựa
vào phần đọc này, tơi nhận xét và tun dương những em đọc có tiến bộ và nhẹ
nhàng chỉ ra điểm chưa tiến bộ để các em nhận biết và cố gắng hơn. Các nhóm
chưa thi đọc sẽ
rút kinh nghiệm để nhóm mình đọc được tốt hơn trong tiết rèn
buổi chiều.
+ Ở nhà: Sau mỗi buổi học, tơi dặn các em về đọc những bài cho buổi học
hơm sau. Sau đó, tơi giao cho từng đơi bạn ( ngồi cùng một bàn ) kiểm tra lẫn
nhau vào đầu giờ học tới. Các em có thể nêu câu hỏi để kiểm tra lẫn nhau như :
Bài tập đọc đó có đầu bài là gì ? dài hay ngắn ? có mấy nhân vật ? ….. Hoặc các
em có thể u cầu lẫn nhau đọc lại một đoạn hoặc một khổ thơ trong bài. Bằng
cách kiểm tra như vậy, tơi ln nắm rõ em nào về nhà có đọc bài, em nào chưa
đọc bài để nhắc nhở kịp thời.
* Trong bước luyện đọc thầm.
Dựa vào SGK, tơi giao nhiệm vụ cụ thể cho HS nhằm định hướng việc
đọc – hiểu (Đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào ? Đọc để biết, hiểu, nhớ điều gì?
…). Có đoạn, văn (thơ ) cần cho HS đọc thầm 2, 3 lượt với thời gian nhanh dần
11


và thực hiện nhiệm vụ, u cầu từ dễ đến khó, nhằm trau dồi kỹ năng đọc – hiểu.
Khắc phục tình trạng HS đọc thầm một cách hình thức.
Sau khi đã rèn đọc thành tiếng, tơi tiến hành cho các em đọc thầm để tìm

việc đọc hay khó thành công. Khi nhận xét, đánh giá
học sinh đọc, tôi luôn tìm ra ưu điểm của các em để
khen ngợi, để các em tự tin hơn trong quá trình thể hiện
của mình. Từ đó, các em có hướng phấn đấu cố
gắng đọc được tốt hơn.
Tóm lại: Trong q trình dạy học, muốn học sinh đọc tốt giáo viên khơng
những phải có phương pháp dạy học tốt mà cón phải có thái độ ơn hồ, cởi mở,
hồ nhã với học sinh. Kiên trì uốn nắn, sửa cách đọc cho các em, để các em tiếp
12


thu bài một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó tôi còn khuyến khích các em đọc
thêm sách báo trong thư viện, qui định các em đi đọc sách ở thư viện ít nhất mỗi
tuần một lần. Hàng tuần, tôi tổ chức cho các em thi đọc thơ vào tiết sinh hoạt
ngoại khoá. Tôi qui định thơ phù hợp với lứa tuổi và không nằm trong sách giáo
khoa. Phần thưởng dành cho những em đọc hay có thể là một lời khen ngợi hay
một lá cờ đỏ để cắm vào góc năng khiếu của lớp.
Với hình thức tổ chức trên, học sinh lớp tôi phụ trách , đặc biệt là những
học sinh đọc chậm, đọc còn phải đánh vần đã thích đọc hơn, mạnh dạn đọc trước
đông người, cũng đã tích cực tham gia vào các hoạt động cùng với các bạn, đã
tăng cường lên thư viện đọc sách,báo nhiều hơn. Nhờ đó, các em đã khích lệ
nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và đã có nhiều em tiến bộ rõ rệt.
2.3.3. Đổi mới và nâng cao chất lượng của phương pháp dạy học.
Việc đổi mới phương pháp dạy đọc cho học sinh lớp 2 của giáo viên là một
quá trình lâu dài, phức tạp, cần phải có những biện pháp và phương pháp thích
hợp trong dạy học tránh sự áp đặt, dập khuôn máy móc .Trong quá trình giảng
dạy, việc đổi mới phương pháp dạy tức là tích cực hóa hoạt động của học sinh ,
học sinh chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Chính vì
vậy tôi luôn tự học và học hỏi đồng nghiệp, tự trau dồi kiến thức để có được
phương pháp dạy theo hướng đổi mới.

học là một công việc khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, trong quá trình học tập và giáo
dục đạo đức học sinh tiếp nhận những tác động từ nhiều phía: Nhà trường - Gia
đình - Xã hội. Công tác giáo dục chỉ đạt hiệu quả cao khi phối hợp thống nhất
được tác động theo hướng tích cực. Đối với học sinh Tiểu học thì tác động giáo
dục của nhà trường, gia đình, xã hội có vai trò quan trọng. Vì vậy, sự kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong lĩnh vực này có tác dụng to lớn
về nhiều mặt đó là:
+ Làm cho các tác động giáo dục đến với học sinh được thực hiện theo
những yêu cầu thống nhất.
+ Giúp cho cha mẹ học sinh và giáo viên hiểu đầy đủ hơn về đối tượng
giáo dục của mình, nhờ đó đề ra được những biện pháp giáo dục phù hợp.
+ Tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong công tác giáo dục. Với những yêu cầu
trên, nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội cần nhận thức đầy đủ và có trách
nhiệm cùng với các nhà quản lý giáo dục tiến hành các hoạt động giáo dục thiết
thực nhằm phát triển năng lực toàn diện cho học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
* Kết quả:
Với một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh như trên, tôi đã trực
tiếp áp dụng trên lớp mình phụ trách tôi thấy học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt,
mặc dù trên thời điểm kết thúc học kì I vẫn còn vài em đọc còn chậm. Nhưng
nhìn chung, các em đều đạt được yêu cầu của tốc độ đọc là 50 tiếng /1 phút, đọc
lưu loát, trôi chảy và đã biết ngắt nghỉ hơi ở các dấu câu, các cụm từ. Sau gần 1
năm vận dụng các giải pháp nêu trên để giảng dạy cho học sinh lớp sinh lớp 2
tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số học sinh Lỗi
Số lượng Tỉ lể %
- Đọc ê-a , ngắc ngứ
0
- Đọc còn sai âm, sai vấn nhiều

có phân môn Tập đọc. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy Tập đọc và
việc tìm ra các biện pháp để rèn cho học sinh lớp 2 đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu
loát …là việc làm hết sức cần thiết. Từ thực tế giảng dạy được đúc rút sau nhiều
năm dạy lớp 2, tôi thấy những biện pháp đưa ra rèn kỹ năng đọc cho học sinh ,
đặc biệt từ lớp tôi chủ nhiệm là phù hợp , vận dụng các biện pháp đó chất lượng
của phân môn Tập đọc đã tăng lên rõ rệt . Qua đây, tôi đã đúc rút được bài học
kinh nghiệm khi rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 như sau:
- Trước hết , giáo viên cần tìm hiểu đặc điểm, năng lực, học tập và phân loại được
các đối tượng học sinh để có biện pháp rèn đọc cụ thể cho từng nhóm đối tượng.
- Để giúp học sinh đọc đúng, đọc lưu loát, trôi chảy giáo viên phải thường
xuyên học tập, nghiên cứu kĩ bài trước khi lên lớp.
- Giáo viên phải đọc mẫu tốt. Tùy từng nội dung văn ban thể hiện phù hợp,
giúp học sinh cảm nhận được văn bản để các em đọc đúng tốc độ, đọc trôi chảy.
- Lắng nghe, quan sát học sinh đọc để sủa cho các em một cách kịp thời.
- Nắm chắc đặc điểm, tâm sinh lý cũng như hoan cảnh của các em để giúp
các em tự tin hơn trong học tập.
- Luôn coi trọng kỹ năng đọc và rèn kỹ năng đọc cho học sinh không chỉ ở
môn Tập đọc mà áp dụng tất cả các môn học khác.
- Cần vận dụng đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, coi trọng công tác
kiểm tra, đánh giá nhưng tránh dập khuôn máy móc.
- Phối hợp với phụ huynh trong việc giúp đỡ, rèn luyện, giáo dục học sinh ở
trường cũng như ở nhà.
* Kiến nghị:
Để thực hiện có chất lượng “ Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học
sinh lớp 2 ” tôi có một số kiến nghị nhỏ sau.
- Đối với cấp trên :
+ Soạn thảo những bài Tập đọc phù hợp với vùng miền, những bài Tập
đọc đó phải gần gũi, sát thực với cuộc sống của các em học sinh.
+ Tổ chức các chuyên đề, hội thảo để đổi mới phương pháp dạy học cho
các trường học tập.

3. Sách Thiết kế bài giảng Tiếng Việt Tập 1,2 ( Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội).

16


4. Tài liệu tập huấn bồi dưỡng giáo viên dạy Lớp 2 thực hiện chương trình sách
giáo khoa mới ở Tiểu học năm 2003 ( Bộ giáo dục - Đào tạo).

môc lôc
1. Mở đầu
- Lí do chọn đề tài.
- Mục đích nghiên cứu.

17


- Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2 Thöïc traïng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm :
2.3 . Các giải pháp sử dụng để giả quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghệm .
3.Kêết luận, kiến nghị.
- Kêết luận.
- Kiến nghị .
Tài liệu tham khảo.

18


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status